Chủ nhật, 05/05/2024,


Câu thơ Lục bát chữ Hán (Phạm Thanh Cải) (14/02/2010) 

NHỮNG CÂU THƠ LỤC BÁT CHỮ HÁN

 

 

           Nhân ngày Xuân, các cụ đồ già, ông đồ trẻ bận rộn cho chữ, người người đua nhau đi xin chữ lấy lộc đầu năm. Bên chén rượu đào, các thi nhân lucbat com cũng được rảnh rang ngâm ngợi thơ Xuân.
         Lục bát truyền thống ta ngâm ngợi đã nhiều. Lục bát chữ Hán thì ít ai nhắc tới.

        Tôi thử mời với các thi hữu ta thử đọc một bài thơ của một vị tiền bối, trong đó có nhiều câu Lục bát chữ Hán vào dịp Xuân mới này, mong được các bạn thơ hưởng ứng.

***

       Trong phần tranh luận về cảm nhận bài thơ 'Trước mộ Nguyễn Du' của bác Vũ Đình Mai, ở mục Lục bát mỗi ngày, tác giả có nói vui rằng: ' Tôi đã đánh đồng thiếp xuống gặp cụ Thanh Tâm Tài Nhân và Cụ đọc cho mấy câu Lục bát. Về Việt Nam, tôi vào viếng Nguyễn Tiên Điền tiên sinh, đọc mấy câu Lục bát Thanh Tâm Tài Nhân cho. Tiên sinh bảo khá đấy! Gửi lên lucbat com xem sao'
      Nghe vậy, bác Trần Văn Lâm mới khôi hài nói rằng:

Đọc xong em mới ngỡ ra

Nước Tàu cũng có "liu ba sư tràng" 

Tưởng rằng Quốc tuý Việt Nam
Thanh Tâm đã đọc rõ ràng: "liu ba".

Ở đây, 'liu ba sư tràng' là phát âm theo tiếng Bắc Kinh của từ  六八诗章 -  thơ lục bát.

       Bác Nguyễn Đức Tuỳ tham gia:' Bây giờ nghe hai bác nói tôi nghĩ rằng có lẽ ngày xưa người Tàu cũng có thơ lục bát nhưng vì khó quá nên sau này người ta không tiếp tục làm nữa'.
        Bác Trần Văn Lâm nói: 'Trung Quốc chỉ mạnh về thơ thất ngôn bát cú chứ làm gì có thơ lục bát'.
       Bác Tuỳ nói rằng thanh âm của tiếng Hoa không có đủ thanh bằng thanh trắc như tiếng Việt nên :
                                     Nhất định là như thế rồi
                                Ta đùa một tý cho vui thôi mà!

Nghe các thi hữu tranh luận, tôi nghĩ rằng, Trung Quốc chắc chắn là không có thơ lục bát rồi. Nhưng liệu có thơ lục bát chữ Hán không?

Chúng ta đọc các bài thơ đường luật thất ngôn, ngũ ngôn, phú, văn tế, câu đối… bằng Hán tự đã quá quen rồi, nhưng đọc thơ lục bát chữ Hán còn ít. Quả là hiếm chứ không phải không có. Qua tìm hiểu, tôi thấy cũng lác đác có câu thơ lục bát chữ Hán. Xuân này tôi cũng thử liều làm một bài Tứ tuyệt Lục bát chữ Hán xem sao. Viết xong, cảm thấy vẫn chưa tin chắc là chuẩn lắm. Nhưng ngày Xuân vui là chính, tôi cứ mạnh dạn chép lên để các thi hữu coi thử xem sao.  

祿

  Phiên âm
Khai hoa xuân sắc Canh Dần

Đào hoa Cung chúc tân xuân huy hoàng

Lộc, tài, phúc, thọ, ninh, khang

Tân niên, quốc thái dân an, xuân hồng.

           Bác Nguyễn Đức Tuỳ, thành viên tích cực của lucbat.com, một thày giáo về hưu cũng thử làm một bài lục bát gửi tặng tôi nhân năm mới:




Phiên âm

Vạn hoa phô sắc nghênh Xuân

Tân niên Chúc hạ Canh Dần an khang

Việt Nam quân đội vinh quang

Phong công, vĩ tích huy hoàng thiên thu.

 Tôi rất tâm đắc với bài này, xin cảm ơn bác Tuỳ và chép ra đây để bạn đọc cùng thưởng thức.

        Vừa rồi, đọc được một bài thơ trong đó có nhiều câu lục bát chữ Hán của Cụ Phan Sào Nam, tôi thấy rất hay. Tôi mạnh dạn chép ra đây để các thi hữu cùng tham khảo.
      
 Theo ý cụ Phan đã viết trong câu cuối của bài thơ: ' - Tương tri vật luận phẩm bình - Lời quê xin miễn phẩm bình!', nên tôi chỉ giới thiệu mà không bình luận thêm ở đây.

***

        'Thơ lục bát chữ Hán có thể nói là một thể thơ khá đặc biệt dùng thể thơ thuần Việt viết cho chữ Hán và ngữ pháp Hán văn. Trước đây có thể có không ít bài thơ được các bậc tiền nhân viết theo thể thức này, nhưng bài thơ Tư Hữu Ngâm của cụ Phan Bội Châu vẫn là một bài thơ độc đáo và đặc sắc. Xin giới thiệu nguyên văn và bản dịch thơ của cụ Nguyễn Văn Bách, có in trong cuốn “Thơ Phú Câu đối chữ Hán Phan Bội Châu” do nhà Xuất bản Văn Học in năm 1975. (Chúng tôi có sửa lại một số chữ Hán và cách phiên âm cho chính xác)

        Bài “Tư Hữu Ngâm” của cụ Phan Bội Châu được chép trong tập “Di cảo” của cụ, mà năm 1961 bà Nguyễn Thị Phúc là người con dâu cả của cụ (bà Phúc là vợ hai ông Phan Huynh) giao cho nhóm biên tập cuốn “Thơ Phú Câu đối chữ Hán Phan Bội Châu” (do nhà XB Văn Học in năm 1975). Bài thơ này có ghi rõ: “Giải nguyên Phan Hải Thụ ký Bắc kỳ Nguyễn Quý Hữu”. Theo ông Tôn Quang Phiệt (một người trong nhóm biên tập cuốn sách trên) thì Nguyễn Quý Hữu ở đây có thể là Nguyễn Thượng Hiền, người mà Phan Bội Châu đã gặp ở Huế những năm 1897-1898 và 1901 – 1904.
         Bài thơ 'Tư Hữu Ngâm' được viết bằng chữ Hán theo ngữ pháp Hán Văn, nhưng lại theo vần luật của thơ Lục bát và Song thất Lục bát. (Nói vậy vì bài thơ không hoàn toàn làm theo thể Lục bát mà còn có những cặp câu 7 chữ gieo vần theo thể Song thất Lục bát, nhưng cũng không hoàn toàn là thơ Song thất Lục bát vì cứ 1 cặp câu Thất lại có tới 4 câu Lục bát chứ không phải 2 câu Lục bát). Tuy vậy có thể thấy phần lớn số câu thơ vẫn được cụ Phan Bội Châu viết theo lối Lục bát.

Nguyên văn chữ Hán:

 


(山意衝寒欲放梅)

 

再;
侯。
頭;
遊。
孤;
人。


到;
旗。
誰;
園。
眠;
頻。


止;
車。
花;
殘。
寒,
聞。


睡;
癡。
枝;
否?
舟;
殷。


起;
醒。
聲;
簫。
燒;
如。


戶;
飛。
葵;
鹿 爭。
生;
時?


籍,
  花。
家;
曾。
鷹;
州。


幾;
桃。
豪;
情交 何?
俄;
重。


許;
言?
樽;
橫。
更;
徐。


望;
吳。
不;
關。
還,
頻。


顧;
郊。
袍?
濱。
頻,
成。


是;
描。
朝;
形。
生;
河。


贈;
蘭。
看;
紳。
欣;
情。


評﹗

 

 

Phiên âm:

TƯ HỮU NGÂM
(Sơn ý xung hàn dục phóng mai)

Mai phóng tảo xuân lai bất tái;
Chước tam bôi túy đãi quân hầu.
Vân sơn nhất chẩm sàng đầu,
Quy lai điệp mộng tương cầu tương du.
Bồi hồi nguyệt dạ đồng cô,
Tam oanh tưởng tượng giang hồ tản nhân.


Song tiền vọng nghi quân hốt đáo,
Bộc môn nghênh không báo tinh kỳ,
Viện thâm thử cảnh cộng thùy,
Trùng minh thanh xướng thanh tùy đông viên.
Đăng khiêu tận, vị thành miên.
Thanh sơn hồi thủ minh tiên mộng tần.


Trướng trung vọng nghi quân chí chỉ,
Đệ liêm phi thuyết vị văn xa.
Kim tôn trường đối đăng hoa,
Liêu ngâm ngâm tận, phục ca ca tàn.
Canh thâm trích lậu thiên hàn,
Ba sơn hám hổ tứ hoàn như văn.


Tiêu tứ cổ vọng quân quân thụy,
Ngọa tàn cang như túy như si.
Đông tường chiết sổ mai chi,
Ta gian hoa thảo đồng tri tâm phầu?
Đồng châu dục hệ Tô châu,
Thư trai tịch tịch, kỷ đầu ân ân.


Tiêu ngũ cổ vọng quân quân khỉ (khởi)
Ỷ huỳnh song nhi túy nhi tinh.
Lân gia hưởng hưởng kê thanh,
Phu xao thôn đạc, nông hành sơn tiêu.
Đình tiền cầu liệu cao thiêu,
Bút hoa tái đính đề kiều Tương Như.


Quân tri vị, bồng lư tất hộ
Kỷ oanh tình cửu ngũ long phi.
Nhân nhân hướng nhật khuynh quỳ,
Hoành bôn nhất lộc thủ thùy tương tranh.
Nhãn tiền như thử thương sinh,
Kinh luân do đãi hà thanh kỷ thì?


Quân bất kiến cần cù thư tịch,
Bộ thanh vân tương trích quế hoa.
Nhiên nhi Quỳnh địa Hồ gia,
Tùng bi mai bảng khôi khoa dã tằng.
Như kim phấn xí dương ưng,
Thanh văn tứ hải, danh đằng cửu châu.


Quân bất kiến xuân thâu (thu) vị kỷ,
Lạc hà như nùng lý yêu đào.
Nhiên nhi nam tử thị hào,
Trương Viên tạc nhật tình giao vị hà.
Như kim đồng nhật du Nga,
Phú ngâm vạn lý, thi ca cửu trùng.


Quân tri vị cô trung tự hứa,
Lộ vân thâm hướng dữ thùy ngôn?
Tiêu sầu khuyến tận nhất tôn,
Hận tương chích thủ càn khôn tung hoành.
Hoài quân chung tận thiên canh,
Đông hoa liêu nhiễu, khê thanh tật từ.


Quân mẫu nhật ỷ lư dao vọng,
Dư tử hành thủy Tống sơn Ngô.
Quân vương cẩm trướng tri phù,
Kinh thu liễu mạch mai cù gian quan.
Hà niên ca tấu khải hoàn,
Ban y thường ký, thừa hoan mộng tần.


Quân phụ nhật ỷ môn xa cố,
Dư tử hành Tấn lộ, Tề giao.
Vô y thùy dữ đồng bào,
Kỳ khu điểu đạo, ba đào hải tân.
Hà niên tam tiệp báo tần,
Cố hương quan cái thù ân sinh thành.


Bút hoa tả quân tình như thị,
Phủ hoài trung ngã ý nan miêu.
Phiến thành mộ mộ triêu triêu.
Vân phi tương tự, phong phiêu bán hình.
Hóa công hà thiện dư sinh,
Nhất thân đề đảm lưỡng kinh sơn hà.


Vọng bất kiến bút hoa liêu tặng,
Bức thư trung vị thắng chi lan.
Quân hầu kỷ án nhàn khan,
Tri tâm nhị tự khứ hoàn thư thân.
Kim triêu nhật ái hoa hân,
Khinh khinh ngọc chỉ mai lân tự tình.


Tương tri vật luận phẩm bình.

 

 

Dịch thơ (cụ Nguyễn Văn Bách)

 

KHÚC NGÂM NHỚ BẠN

 

Mai nở sớm xuân không trở lại,
Rượu ba ly chuốc đợi quân hầu.
Vân Sơn chung giấc gối đầu,
Khi về hồn mộng bên nhau vẫn gần.
Một mình thơ thẩn dưới trăng,
Ba canh tưởng thấy cố nhân bên mình.

Ngó trước song ngỡ anh vừa tới,
Vội đón mừng trông với thấy đâu.
Cùng ai giải muộn đêm thâu,
Vườn đông eo óc tiếng sâu não nùng.
Đèn tàn chưa nhắp giấc nồng,
Non xanh ngoảnh lại những hòng trở roi.

Trong trướng đợi ngỡ người tới đó,
Vén rèm trông nào có bóng xe.
Chén vàng trước ngọc đèn hoa,
Thơ ngâm hết ý, khúc ca cạn lời.
Lạnh lùng đêm vắng canh dài,
Non Ba hổ thét quang nơi rợn mình.

Trống canh tư trông anh, anh ngủ,
Bên đèn tàn mờ tỏ mơ say.
Tường đông bẻ mấy nhành mai,
Cỏ hoa có thấu lòng người chăng ru?
Cùng nhau mong dạo thuyền Tô,
Phòng văn vắng ngắt, án thư lặng tờ.

Trống canh năm anh vừa trọn giấc,
Tựa song huỳnh ngây ngất tỉnh say.
Tiếng gà gáy rộn đông tây,
Thôn vang mõ sớm, non đầy sáo mai.
Trước sân soi đuốc rạng ngời,
Đề cầu nuôi chí nối lời Tương Như.

Anh có thấy phên thưa mái cỏ,
Cũng nặng tình hội ngộ rồng mây.
Người người như hướng bóng quỳ,
Hươu kia tranh chấp biết về tay ai.
Dân đen đương lúc ngập vùi,
Kinh luân đâu nỡ đợi thời lặng trong.

Anh có biết bao công kinh sử,
Bước thang mây bẻ quế cung nga.
Quỳnh Lưu tài tử họ Hồ,
Bảng mai bia đá khôi khoa đã từng.
Ngày nay tung cánh chim ưng,
Tiếng vang bốn bể, danh lừng chín châu.

Anh có biết xuân thâu đương độ,
Sân lý đào vui thuở đượm nồng.
Song le nam tử hào hùng,
Trương Viên thuở nọ, tình chung đậm đà.
Ngày nay cùng trở sang Nga,
Phú ngân muôn dặm, thơ ca chín trùng.

Anh nặng chữ cô trung gắn bó,
Nẻo xa mờ biết ngỏ cùng ai.
Giải sầu rót một chén mời,
Xắn tay muốn kéo đất trời dọc ngang.
Nhớ anh canh đã hầu tàn,
Hoa đông héo hắt, khe tràn đầy vơi.

Mẹ tựa cửa xa vời mong ngóng,
Con ta đi nước Tống, non Ngô.
Quân vương có thấu chăng chưa,
Trải năm liễu mạch mai cù cách ngăn.
Bao giờ hát khúc khải hoàn,
Ban y vui buổi thừa hoan cam lòng.

Cha tựa cửa đoán trông xa tận,
Con ta đi nước Tấn cõi Tề,
Cùng ai tình nghĩa chở che,
Biển khơi sóng gió, núi khe gập ghềnh.
Bao giờ báo tiệp tin gần,
Xênh xang mũ áo đền ân sinh thành.

Bút hoa giãi tình anh nhường đó,
Chút lòng riêng khôn ngỏ hết lời.
Nhớ người đã sớm thôi mai,
Gió lay ngỡ bóng, mây trôi tưởng hình.
Hoá công khéo phú cho mình,
Một thân gánh vác hai kinh sơn hà.

Mong chẳng gặp bút hoa chút tặng,
Vị trong thư hơn hẳn chi lan.
Gửi người trước án xem tường,
Thấu lòng ghi tạc đá vàng hôm mai.
Sớm nay trời đẹp hoa tươi.
Xin đưa gót ngọc, xóm mai tự tình.

Lời quê xin miễn phẩm bình!

 

 

Nguồn: vnthuquan

 

Phạm Thanh Cải

(sưu tầm và giới thiệu)

 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
  Trần Mạnh Tuân - tuan_hwru@fulbrightmail.org - 091 353 0266 - Hà Nội  (Ngày 17/02/2010 10:53:55 AM)

     Nhắn Phạm Thanh Cải :

Tá to... không thể tướng rồi,
Thâm niên ngồi đợi mà xơi cuối đời!

Thơ thì "bố" khắp chỗ chơi,
Mỗi ngày,"Bình sĩ" lại rồi... Thiếu nhi...
Mõ làng... Thi hoạ... kém gì!
Xưa nay... Kết nối... cần thì chơi ngay.

Hoạ nhanh xếp thứ...nhì này,
Uyên thâm Tầu ngữ...bó tay xin hàng!
Sẽ mang Tây ngữ so ngang,
Một bài lục bát đàng hoàng... kém chi!

Hãy đợi đấy! Nu-pô-gôdi ( НУ!ПОГОДИ!)
X-nô-vưm-gôt-đôm (С НОВЫМ ГОДОМ)...thì gặp nhau...

Trần Mạnh Tuân

  Tran Luu Phuong - luuphuong.tran@yahoo.com.vn - 01265707316 - Long Khanh -Dong Nai  (Ngày 15/02/2010 01:12:01 AM)

Lục Bát Hán ngữ gian nan
Bá trình , nhân độc bàng hoàng tâm tư
Hồi âm tịch lặng không hư
Ngã mạo muội, chấp bút thư tiếp từ.

Lưu Phương viết vui Bác nhé.

  Vũ Đình Mai - hoamai@ yahoo.com - 0313 592 101 - 5/43 Trần Phú - Hải Phòng.  (Ngày 15/02/2010 06:15:02 AM)

     Cứ nghĩ ông bạn này chỉ giỏi kỹ thuật quân sự, không ngờ lĩnh vực nào bạn cũng giỏi.
      Riêng cái bài gì về tụng kinh có hai từ "ta bà" mà mấy lần mình cứ đọc nhầm là "tanh bành" ấy, mình đã phục Thanh Cải lắm lắm. Giờ sang đến lục bát chữ Hán này thì mình thua luôn !
      Bạn đã làm phong phú và góp phần hàn lâm hoá sân chơi của chúng ta. Cám ơn bạn nhiều.
     Chúc bạn ngày càng viết khoẻ, viết hay. Mong được tiếp kiến.
                                 Mai

Các bài khác: