Thứ bảy, 18/05/2024,


Vần và nhịp trong thơ ca Việt Nam và Lục Bát (07/08/2009) 

 

I. VẦN

 

Thơ ca Trung Quốc, tất cả vần được qui định thành 106 bộ. Một bài thơ đã gieo vần ở bộ nào thì chỉ được lấy vần ở bộ ấy, không được lấy sang bộ khác.

 

Thơ ca tiếng Việt không có một qui định vần bộ nào. Từ nào có quan hệ với Trung Quốc thì có thể phỏng theo, còn những từ thuần Việt thì theo qui luật âm thanh của tiếng Việt. Bởi vậy, vần chính trong một bài thơ Việt là do người làm thơ chọn lấy, coi như là vần chủ. Vần chủ đó có thể ghép với những vần đọc với giọng na ná, gọi là vần thông.

 

Các nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại) đã tóm tắt qui luật về vần như sau:

 

1. Về thanh bằng thông với nhau

- Nếu cùng một thanh thì phụ âm đầu phải khác nhau (trừ trường hợp khi dùng một từ mà nghĩa khác nhau).

- Nếu khác thanh, thì phụ âm đầu có thể giống nhau.

 

2. Về âm của vần

2.1. Vần chính

 

- Phải có âm giống nhau

- Phụ âm cuối (nếu có) phải giống nhau     (Theo qui luật của thanh ở trên.)

- Phụ âm đầu (nếu có) phải khác nhau

 

Ví dụ: *Trường, dương, vương

          * ang, hoang, trang

          * càng, vãng, láng, trang

 

2.2. Vần thông

 

- Có âm na ná như nhau

- Phụ âm cuối (nếu có) có thể hơi khác nhau    (Theo qui luật của thanh ở trên. (tức na ná như nhau)

     - Phụ âm đầu (nếu có) có thể giống nhau

 

Ví dụ:  * trong, tong, tùng, tuồng

           * an, ăn, lâng

           * quen, quên, in, yên

 

Ngoài ra còn có vần ép: độ hòa âm cực kì cưỡng ép. Nhưng trong thực tế vẫn được các nhà thơ sử dụng.

 

3.  Thể thơ lục bát

 

Niêm luật của thể thơ lục bát khá giang dị, có thể tóm tắt theo hai hệ thống như sau:

 

3.1. Hệ thống phổ biến

 

Vần bằng (tiếng thứ 6 câu sáu, tiếng thứ 6 và thứ 8 câu tám)

 

 

1

2

3

4

5

6

7

8

Lục

-

bằng

-

trắc

-

bằng

 

 

Bát

-

bằng

-

trắc

-

bằng

-

bằng

      

Các tiếng thứ 4, thứ 6, thứ 8 nhất thiết phải theo trắc bằng cố định; riêng tiếng thứ 2 có thể linh động bằng hay trắc.

 

Ví dụ:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Chẳng lịch cũng thể con người thượng kinh

(Ca dao)

 

3.2. Hệ thống đặc biệt

 

Có hai điểm khác với hệ thống trên

- Vần trắc. Ví dụ:               

Tò vò mà nuôi con nhện

Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi

(Ca dao)

           

- Vần lưng gieo ở từ thứ 4 câu bát. Ví dụ:                 

Núi cao chi lắm núi ơi

Núi che mặt trời chẳng thấy người thương

(Ca dao)

 

3.3. Cũng như các thể thơ khác, thơ lục bát cũng sử dụng 3 loại vần trên. Những  bậc thầy về thơ ca lục bát như Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Duy cũng có lúc sử dụng vần thông. Chẳng hạn:

 

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai

Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên xoang

Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.

(Truyện Kiều)    

 

Do đó, những ý kiến cho thơ lục bát đăng tải trên Lucbat.com chưa chuẩn về vần điệu là không thỏa đáng. Những ví dụ mà tác giả lấy ra làm dẫn dụ hoặc là vần không nằm ở tiếng thứ 6 mà nằm ở tiếng thứ 5 theo lối phá cách (“Nhân tài nguyên khí quốc gia”/ Lời tiền nhân chính là lời nước non) hoặc theo vần thông (một trong hai loại vần phổ biến trong thơ ca Việt Nam nói chung, thơ lục bát nói riêng). 

 

II. NHỊP ĐIỆU

 

Khái niệm nhịp điệu

 

 “Nhịp điệu là yếu tố tổ chức biểu đạt nghệ thuật thuộc các chủng loại khác nhau mà trong nghệ thuật thính giác như âm nhạc, thơ ca… thể hiện tiêu biểu” (Nguyễn Thái Hoà, Từ điển tu từ- phong cách- thi pháp học).

  

Khác với vần, tuy quan trọng nhưng không bắt buộc phải có trong mọi bài thơ, nhất là thơ tự do; còn sự tồn tại của nhịp lại mang tính tất yếu, phổ quát, bắt buộc. Mọi bài thơ đều phải có nhịp. Không có nhịp chưa tạo thành thơ. Nhà thơ Sóng Hồng đã nhấn mạnh đến vai trò của nhịp khi cho rằng: “Vần hay không tôi cho là thứ yếu/ Âm thanh không réo rắt đố thành thơ”. TS. Phan Huy Dũng cũng khẳng định: “Cũng như nhiều loại nghệ thuật thời gian, thơ trữ tình bao giờ cũng quan tâm tới vấn đề nhịp điệu. Bởi không có nhịp điệu, người đọc không thể nhận thức nổi, nhận thức đúng về nội dung của chuỗi âm thanh, chuỗi ngôn từ phát ra tưởng chừng vô tận theo thời gian. Nhờ nhịp điệu mà chuỗi ngôn từ tưởng như bất định kia được cấu trúc, trở thành tác phẩm nghệ thuật, có khả năng gây xúc động lòng người…” (Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội-1999).

 

Nói một cách khái quát, nhịp thơ là cái được nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chu kỳ, cách quãng hoặc luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt và của những đơn vị văn bản như câu thơ, khổ thơ, thậm chí đoạn thơ.

 

2. Các dấu hiệu hình thức của nhịp điệu thơ

 

Ngoài những dấu hiệu cú pháp như dấu phẩy, dấu chấm phẩy, dấu chấm, dấu hai chấm… xuất hiện trên dòng thơ, câu thơ, người phân tích nhịp thơ còn phải chú ý các dấu hiệu hình thức sau:

 

2.1. Chỗ ngừng, chỗ ngắt được phân bố trong dòng thơ, câu thơ, khổ thơ

 

Những điểm ngắt, điểm ngừng đã phân chia chuỗi ngôn từ ra thành từng nhóm  âm tiết, thành dòng, thành câu, thành khổ, thành đoạn - tức là những chỉnh thể của văn bản thơ. Vì thế, người đọc thơ phải nắm vững kỹ thuật tạo nhịp trong từng thể thơ để ngắt nhịp cho đúng.

Trong các thể thơ cách luật, điểm ngắt, điểm ngừng thường được bố trí vào các vị trí cố định và xuất hiện đều đặn theo chu kỳ.

 

Thơ Đường luật thường ngắt theo nhịp 4/3. Ví dụ:

 

Ao thu lạnh lẽo/ nước trong veo

Một chiếc thuyền câu/ bé tẻo teo.

(Mùa thu câu cá- Nguyễn Khuyến)

 

Thơ lục bát chủ yếu ngắt theo nhịp chẵn 2/4 (2/2/2, 4/2); 4/4 (2/2/4, 2/2/2/2, 4/2/2). Ví dụ:

 

Trời mưa ướt bụi/ ướt bờ,

Ướt cây/ ướt lá/ ai ngờ ướt em.

(Ca dao)

 

Này chồng/ này mẹ/ này cha,

Này là em ruột/ này là em dâu.

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

 

Nhưng khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng khác thường, bất định… thì có thể chuyển sang nhịp thơ lẻ 3/3, 1/5, 3/5… Ví dụ: 

 

Người quốc sắc/ kẻ thiên tài

Tình trong như đã/ mặt ngoài còn e.

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

 

Buồng không/ lặng ngắt như tờ

Dấu xe ngựa/ đã rêu lờ mờ xanh.

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

 

Thơ thất ngôn lục bát, ở câu lục bát, nhịp điệu như thể lục bát; còn ở câu thất ngôn thường có nhịp 3/4 hoặc 3/2/2. Ví dụ:

 

Thuở trời đất/ nổi cơn gió bụi

Khách má hồng/ nhiều nỗi truân chuyên.

(Chinh phụ ngâm - bản dịch của Đoàn Thị Điểm)

 

Bến Tầm Dương/ canh khuya/ đưa khách

Quạnh hơi thu/ lau lách/ đìu hiu.

( Tỳ bà hành - bản dịch của Phan Huy Vịnh)

 

Trong thơ tự do, điểm ngắt, điểm ngừng được phân bố linh hoạt, phóng khoáng không tuân theo khuôn khổ nào. Người phân tích nhịp điệu thơ phải dựa vào ý nghĩa ngôn từ và dòng chảy cảm xúc của nhà thơ để xác định điểm ngừng, điểm ngắt mà ngắt nhịp cho đúng. Ví dụ:

 

Đêm lạnh/ càng thêm nguyệt tỏ ngời

Đàn ghê như nước/ lạnh/ trời ơi!

(Nguyệt Cầm - Xuân Diệu)

 

Người ra đi/ đầu không ngoảnh lại

Sau lưng/ thềm nắng/ lá rơi đầy.

(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

 

2.2. Vần

 

Chỗ ngừng, chỗ ngắt có liên quan hoặc không liên quan đến sự tồn tại của vần nhưng mỗi khi chỗ ngừng, chỗ ngắt nhờ vần bao giờ cũng có một vị trí nổi bật. Nhờ vần, những chỗ ngừng, chỗ ngắt trở nên sắc nét hơn. Ví dụ:

 

Tôi lại về/ quê mẹ nuôi xưa

Một buổi trưa/ nắng dài bãi cát…

(Mẹ Tơm - Tố Hữu)

 

Câu thứ 2 ngắt nhịp sau âm tiết “trưa” - một âm tiết mang vần. Với vần “ưa” được gieo vào vị trí bất ngờ (tiếng thứ 3 của câu thơ), nhịp thơ được cảm nhận một cách rõ ràng, có thể đưa đến ấn tượng về một sắc nắng vừa chói chang, vừa dịu dàng (do âm sắc trung hoà của vần “ưa” gợi ra). Tiếp đó, nhờ chỗ ngắt, từ “dài” nằm trong nhịp sau bỗng nhiên mang đầy cảm giác do nó được kéo dài ra. Theo liên tưởng tự nhiên, trước mắt người đọc bỗng hiện lên một bãi cát trải dài, lấp lánh dưới ánh nắng vàng tươi.

 

Trong thơ tự do số lượng âm tiết trong từng dòng thường không cố định, đơn vị nhịp điệu có thể dài ngắn khác nhau; không thể ngừng nhịp theo mô hình có sẵn như trong thơ cách luật. Do đó, trong nhiều trường hợp vần trở thành một tiêu chí rất quan trọng giúp người đọc ngừng nhịp đúng chỗ. Ví dụ:

 

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…

(Tống biệt hành - Thâm Tâm)

 

2.3. Yếu tố tạo nên nhịp điệu trong thơ còn là những chỗ nhấn do trọng âm của từ  qui định (đối với ngôn ngữ có trọng âm như tiếng Nga) hay do thanh điệu, do âm sắc nổi bật của âm tiết nào đó trong mối tương quan với những âm tiết khác (như tiếng Việt). Những “điểm nhấn” không chỉ liên quan tới vài từ cá biệt trong câu thơ như từ láy, từ địa phương, từ Hán Việt, từ diễn tả âm thanh, màu sắc, động tác… mà còn gắn rất chặt với hình thức điệp từ, điệp ngữ lan từ  dòng thơ, câu thơ sang đoạn thơ. Vì thế, khi phân tích nhịp điệu bài thơ, chúng ta phải lưu ý tới những “điểm nhấn” bởi đó là một trong những dấu hiệu hình thức tạo nên nhịp điệu thơ.

 

Ví dụ 1: Nhịp điệu câu thơ: Lác đác bên sông/chợ mấy nhà (Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan) được cảm nhận vừa qua hình thức ngắt nhịp 4/3 mang tính qui phạm của thơ Đường vừa qua nghệ thuật đảo ngữ mạnh mẽ và qua âm điệu nổi bật của từ láy “lác đác”. Đồng thời các yếu tố trên lại còn hỗ trợ cho nhau vì một nhịp điệu chung. Chẳng hạn, sự kết hợp giữa cú pháp đảo ngữ với âm điệu của từ láy làm cho câu thơ càng thêm nổi bật, gây ấn tượng về sự thưa vắng đối với người đọc.

 

Ví dụ 2: Trong khổ thơ

 

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây…

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,

Nghe ra ý vị và thơ ngây…

 (Mùa xuân chín - Hàn Mạc Tử)

 

Những từ  láy “vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thĩ”; những từ chỉ tính chất “ý vị”, “thơ ngây” khi đọc bất giác chúng ta phải nhấn mạnh do chính đặc trưng âm thanh và ý nghĩa của chúng đưa lại.

 

2.4. Đơn vị cơ bản để khảo sát nhịp của một bài thơ là câu thơ hoặc khổ thơ. Trong thơ cổ, mỗi câu thơ là một đơn vị cơ bản để khảo sát vì mỗi câu thơ thường có tính chất độc lập tương đối. Còn trong thơ hiện đại, có khi đơn vị cấu tạo cơ sở của nó không  phải là câu mà là khổ thơ. Cho nên khi phân tích nhịp điệu của thơ hiện đại chúng ta nhiều khi phải dựa vào ý nghĩa ngôn từ cả khổ thơ. Ví dụ: Cả khổ thơ

 

Này lắng nghe em khúc nhạc thơm

Say người như rượu tối tân hôn;

Như hương thấm tận qua xương tuỷ,

Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn.

(Huyền diệu - Xuân Diệu)

 

là một câu thơ chỉ cái ngây ngất, chuếnh choáng do khúc nhạc thơm tạo nên. Cho nên phải lấy đơn vị đoạn để phân tích nhịp điệu các dòng thơ trên.

 

Trên đây là những dấu hiệu hình thức của nhịp điệu thơ trữ tình mà chúng ta thường gặp khi phân tích nhịp điệu thơ. Người đọc thơ, phân tích thơ phải nắm vững thì mới có thể truyền được đầy đủ cảm xúc của nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm.

Tác giả Nguyễn Công Thanh

-------------------

Địa chỉ: 36 Phan Đăng Lưu, Tân An, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk

Điện thoai: 0984073045

 

 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
  Nguyễn Văn Liêm - vanliem@sapharco.com - 0913742698 -   (Ngày 4/09/2009 06:01:51 PM)
Chào các anh Công Thanh, Đạt Ma, Thực sự tôi chỉ là dân "võ biền" chứ không phải dân văn vì vậy tôi không có nhiều tài liệu như các anh. Do đó, đối với tôi thì 2 câu trên tôi đã được học thuộc lòng từ nhỏ và được một thầy giáo dạy văn bảo rằng của Trần Quang Khải và nó cứ in trong tiềm thức của tôi như thế. Vì vậy nếu có gì sai sót mong các anh bỏ qua cho. Nhưng tôi cũng thắc mắc một chút mong các anh tìm thử có tài liệu nào chứng minh rằng Thầy tôi nói đúng không. Bởi vì danh từ Tràng An (hay Trường An) dùng để "ám chỉ" kinh đô Thăng Long (Hà Nội) không phải là từ có ngàn xưa mà nó chỉ có thể xuất hiện sau này. (Ở đây chúng ta loại bỏ việc tên Trường An chính thức là địa danh của một thành phố ở Trung Quốc đi, vì danh xưng này chỉ dùng "ám chỉ" Hà Nội chứ không phải danh xưng chính thức). Vậy nếu truy ra tên Tràng An xuất hiện vào thời kỳ naò, trong giai đoạn văn hoá nào người ta hay dùng chữ Tràng An để chỉ Hà Nội, thì có thể tìm ra nguồn gốc các câu thơ trên vào đời nào. Mà nếu nó sau đời Lý thì có khả năng nó ra đời vào đời Trần lắm chứ. Mong các anh có thể làm sáng tỏ. Cảm ơn các anh nhiều. Liêm NV
  Nguyễn Công Thanh - thanhvanhoa@ymail.com - 0984073045 - 36 Phan Đăng Lưu, Tân An, Buôn Ma Thuột  (Ngày 3/09/2009 08:17:35 PM)
Thân gửi các anh Văn Liêm, Đạt Ma! Trước hết, tôi xin cảm ơn góp ý của bạn Liêm về trường hợp câu lục bát: "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Chẳng lịch cũng thể con người thượng kinh", và những lời chúng minh rất thuyết phục của bạn Đạt Ma rằng đây không phải là thơ của Thượng tướng Trần Quang Khải. Theo tôi, đây là ca dao. Mà ca dao là sáng tác của nhân dân, lưu truyền bằng miệng nên có nhiều dị bản. Có bản như bạn Liêm viết. Vả lại, như trong bài viết tôi đã nói là dẫn theo các nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức trong "Thơ ca Việt Nam-hình thức và thể loại", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003. Bạn Liêm có thể tìm đọc từ trang 166-168 cho rõ thêm. Cuối cùng, xin gửi lời chào thân ái!
  Đạt Ma - ghetlucbat@gmail.com -  -   (Ngày 3/09/2009 08:02:12 PM)

Bài viết của Nguyễn Công Thanh, cá nhân tôi cho rằng đọc rất thú vị, có nghề. Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh”, xin dẫn nguồn để quý vị bạn đọc cảm ứng:

http://e-cadao.com/queta/Hanoi/thanglonghanoi2.htm
  Đạt Ma - ghetlucbat@gmail.com -  -   (Ngày 3/09/2009 08:01:54 PM)
1- Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, Hội VNHN H.1971/ 2- Địa chí văn hóa dân gian Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, Sở VHTTHN H.1991/ 3- Hà Nội nghìn xưa Tr. Quốc Vượng - Vũ Tuấn Sán Sở VHTT H. 1975/ 4- Lịch sử thủ đô Hà Nội, Viện Sử học H.1960/ 5- Người và cảnh Hà Nội Hoàng Đạo Thúy NxbHN H.1982/ 6- Tục ngữ ca dao, dân ca Việt Nam, Vũ Ngọc Phan, NxbKHXH H. 1978/ 7- Ca dao Huyền Tâm Giang Quân sưu tầm Sở VHTT H. 1994/ 8- Hà Nội, con đường dòng sông và lịch sử Ng. Vinh Phúc - Ng. Văn Lê XBGTVT H. 1984 (Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, ngày 31/08/2009, được “Giải thưởng Lớn” , Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội, với hàng loạt tác phẩm về Hà Nội trong suốt 55 năm qua). Các nguồn trên đều khẳng định: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Trường An, là ca dao Việt Nam.
  Đạt Ma - ghetlucbat@gmail.com -  -   (Ngày 3/09/2009 08:01:13 PM)
Trần Quang Khải 陳光凱 (1241-1294) tự là Chiêu Minh, trong thơ văn ông có thể tìm thấy một tinh thần yêu nước kiên cường, một tấm lòng gắn bó với con người và tạo vật, một khí phách anh hùng tiêu biểu cho dân tộc. Tác phẩm có tập thơ "Lạc đạo", nhưng đã mất, hiện chỉ còn lại mươi bài, đếm trên đầu ngón tay. Một số bài: Đề Bạch Mã từ, Đề dã thự, Lưu Gia độ, Phúc Hưng viên, Tặng bắc sứ Sài Trang Khanh Lý Chấn Văn đằng, Tống bắc sứ Sài Trang Khanh, Tụng giá hoàn kinh sư, Xuân nhật hữu cảm kỳ 1, Xuân nhật hữu cảm kỳ 2. (Nguồn: Vi.wikipedia.org; Lichsuvietnam.vn; Thivien.net; Vnthuquan.net; Lịch sử danh nhân Đất Việt, Nguyễn Huệ Chi; Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần, Ngô Tất Tố, Nxb Đại Nam, Khai Trí, Sài Gòn, 1960, trang 83; Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2006, Tr.1386.)… Tất cả các nguồn trên không thấy đề cập 2 câu: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An, là của Trần Quang Khải.
  Nguyễn Văn Liêm - vanliem@sapharco.com - 0913742698 -   (Ngày 3/09/2009 05:17:58 PM)
Gửi tác giả Nguyễn Công Thanh, Theo tôi biết thì 2 câu thơ lục bát trong phần ví dụ của mục 3.1 trong bài này có nguyên bản là : "Chẳng thơm cũng thể hoa Nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Trường An" và là của Trần Quang Khải (nhà Trần) chứ đâu phải ca dao. Ngoài ra, về từ ngữ sử dụng, một số tài liệu CÓ THỂ DỊ BẢN là : "Chẳng thơm cũng thể hoa Nhài/ Dẫu không LỊCH SỰ cũng người Trưòng An" chứ còn câu của bạn thì tôi ... chưa đọc ở đâu bao giờ. Vậy bạn có thể xem lại chút được chăng? Cảm ơn bạn Liêm. NV
Các bài khác: