Ưu tư Thị Màu
Bao dung đừng trách Thị Màu
Quả cau lỡ chát, lá trầu lỡ cay
Ái tình không có mùa chay
Khát khao ẩn dưới đuôi mày lá răm.
Chân tu tiếng mõ đêm rằm
Nghe hư vô cả trăm năm kiếp người
Đừng buồn em, Thị Kính ơi!
Nâu sồng chị khép phận đời trớ trêu.
Tin yêu vụng dại đâm liều
Em chơi vơi quá đơm điều chị thôi
Ẵm bồng giọt máu mồ côi
Ăn mày cửa Phật một lời từ bi.
Đời em nào dám mong gì
Cầu xin lòng chị nhu mì thứ tha
Chị em mình phận đàn bà
Cỏ dù cao thấp vẫn là cỏ thôi!
Đừng buồn em, Thị Kính ơi!
Nỗi oan của chị có đời hiểu cho
Tên em bồ hóng cửa chùa
Gỡ tai tiếng mãi đến giờ chưa bong!..
Trương
(Tập thơ “Viết tặng những mùa xưa”
NXB Thanh niên, Hà Nội, 1999)

Hiếm có nhân vật nào của chèo cổ làm tốn nhiều giấy mực như Thị Màu. Nào thơ, nào truyện về Thị Màu. Nếu như trước kia người ta mai mỉa: “oan Thị Màu”, rồi coi Thị Màu là kẻ lẳng lơ đĩ thoã… thì hơn chục năm gần đây làng văn nghệ đã có cách nhìn mới về Thị Màu, coi Thị Màu là người dám nói lên tiếng nói thực lòng, đấu tranh cho quyền sống, quyền yêu, thậm chí rất mực đề cao Thị Màu:
“Người mấy trăm năm làm rung chuyển những sân đình
Làm điên đảo những phông màn khép mở
Người táo bạo
Người không hề biết sợ…”
(Anh Ngọc)
“Thị Màu em vắng một ngày
Đàn ông trên thế gian này ra sao?”
(Ngân Vịnh)
Nhưng nói gì thì nói, Thị Màu vẫn là người có lỗi. Lỗi đã chồng thêm một cái oan thứ hai lên cuộc đời bất hạnh của Thị Kính: oan thông dâm (của một nhà sư) chồng lên oan giết chồng. Khó có thể biện minh cho Thị Màu trong việc này.
Những bài thơ văn gần đây về Thị Màu đa số chỉ là cách nhìn của mỗi tác giả về nhân vật này. Còn tâm sự của chính Thị Màu – người trong cuộc – như thế nào? Trương Nam Hương đã viết thay Thị Màu lời tâm sự ấy. Đó cũng là một cách bào chữa khéo léo, nhẹ nhàng, khơi gợi sự cảm thông đối với Thị Màu. Cách viết này dễ thuyết phục người đọc hơn.
“Bao dung đừng trách Thị Màu
Quả cau lỡ chát, lá trầu lỡ cay
ái tình không có mùa chay
Khát khao ẩn dưới đuôi mày lá răm”
Ngay từ lời đầu tiên, đã là sự kêu gọi niềm bao dung, rộng lượng với Thị Màu. Đừng trách cứ nàng, bởi lẽ có nên chăng sự trách cứ một “lò lửa” hừng hực khát khao yêu và sống:
“Ái tình không có mùa chay
Khát khao ẩn dưới đuôi mày lá răm”
Hình ảnh “quả cau lỡ chát, lá trầu lỡ cay” là ẩn dụ cho sự lỡ đà, thái quá trong tình cảm nhưng cũng rất đáng được cảm thông của Thị Màu. Đó còn là một cách nói đặc sắc, bởi vì bản chất của cau là chát, của trầu là cay, nhưng ở đây lại là “ lỡ chát, lỡ cay”, ý nói bản chất của ái tình, của một con người như Thị Màu là tất nhiên phải sôi sục khát khao, dẫu rằng sự khát khao ấy có lỡ làm tổn thương người khác. Sự vào đề nhẹ nhàng, đằm thắm (có chút gì như cầu xin) ấy khiến người dù có định kiến đến đâu với Thị Màu cũng phải dịu xuống để nghe tiếp những lời giãi bày, tâm sự:
“Chân tu tiếng mõ đêm rằm
Nghe hư vô cả trăm năm kiếp người
Đừng buồn em, Thị Kính ơi
Nâu sồng chị khép phận đời trớ trêu
Tin yêu vụng dại đâm liều
Em chơi vơi quá đơm điều chị thôi
Ẵm bồng giọt máu mồ côi
Ăn mày cửa Phật một lời từ bi”
Bài thơ là lời giãi bày của Thị Màu với Thị Kính. Lời giãi bày sau khi Thị Màu đã biết toàn bộ sự thật về cuộc đời Thị Kính, người mà nàng đã trót gây oan. Hối lỗi, ngậm ngùi và cầu xin tha thứ, đồng thời không ngớt phân trần về lẽ đời, ước vọng sống của mình - đó là tâm sự của Thị Màu. Nàng thương cảm cho “phận đời trớ trêu” của Thị Kính, mà cũng thấy thật xa lạ với cõi thiền Thị Kính đã dấn thân vào, nó đối lập gay gắt với những khát khao trần tục, đầy nhựa sống của con người:
“Chân tu tiếng mõ đêm rằm
Nghe hư vô cả trăm năm kiếp người”
Cái oan lớn mà Thị Màu đã buộc Thị Kính phải chịu, với “bằng chứng” là đứa con gửi lại cửa Phật, lỗi lầm gây ra cái oan ấy thật khó mà thanh minh. Nhưng Thị Màu vẫn cố gắng thanh minh, không phải bằng sự chối cãi, trơ tráo mà bằng sợi dây tình cảm, trắc ẩn và nhân hậu, vốn rất dễ rung lên của những người đàn bà:
“Tin yêu vụng dại đâm liều
Em chơi vơi quá đơm điều chị thôi
Ẵm bồng giọt máu mồ côi
Ăn mày cửa Phật một lời từ bi”
Yêu Thị Kính (khi nhầm tưởng Thị Kính là đàn ông), Thị Màu đâu có lỗi. Và tình tự với anh Nô cũng chỉ là một cách giải thoát cho “tình yêu vụng dại” không được đáp đền. Cái liều của Thị Màu, liều đến mức “đơm điều” cho Thị Kính (rằng mình có con với Thị Kính) xét cho cùng cũng chỉ là bước cuối của một sự bế tắc: “em chơi vơi quá”. Tác giả đã “giảm tội” cho Thị Màu” bằng vài câu ngắn gọn nhưng thật tình cảm. Kẻ gây oan lớn cũng vẫn chỉ là một người đàn bà đáng thương, dại dột.
Và việc “gửi trả” đứa con cho Thị Kính cũng là: “ăn mày cửa Phật một lời từ bi”. Có sự trả thù cho mối tình không được đền đáp của Thị Màu trong việc này không? Nếu có, cũng chỉ là dại dột. Thị Màu sẽ còn phải ân hận mãi, bị lương tâm phán xét mãi sau khi đã rõ nỗi oan Thị Kính. Cho nên:
“Đời em nào dám mong gì
Cầu xin lòng chị nhu mì thứ tha”
Cái cô Thị Màu chao chát, đanh đá trước sân đình trong buổi ngả vạ giờ đã phải cúi mình xin Thị Kính tha thứ. Lời cầu xin thật tội nghiệp, nhất là câu “Đời em nào dám mong gì”. Với cái án “chửa hoang” mà Thị Màu phải mang vào thời ấy, đó quả là một câu than tự đáy lòng. Một con người cao quý, giàu lòng trắc ẩn và đức hy sinh như Thị Kính chắc hẳn không thể không mủi lòng trước lời cầu xin ấy – dù là lời cầu xin của kẻ đã gieo oan cho mình, khiến mình phải đau đớn cả về thể xác và tinh thần, bị xúc phạm nặng nề đến danh dự suốt mấy năm ròng.
Không dừng lại ở đó, Thị Màu cố gợi lòng thương bằng sự đồng cảm:
“Chị em mình phận đàn bà
Cỏ dù cao thấp vẫn là cỏ thôi”
Ta nhớ tới lời bào chữa của Hoạn Thư trước phiên toà báo ân báo oán mà Thuý Kiều là người xét xử:
“Rằng tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”
Cái sự “vơ vào” thông minh mà cũng đáng thương ấy, khi tìm “điểm chung” giữa bị hại và can phạm (đều là đàn bà với nhau cả), tuy có phần nguỵ biện, nhưng chắc kêu gọi được lòng thương, sự thông cảm tha thứ của người bị hại. Với trường hợp Thị Màu, lời than “ Cỏ dù cao thấp vẫn là cỏ thôi” nghe thật ngậm ngùi. Đánh đồng Thị Màu – Thị Kính trong nỗi khổ của người phụ nữ thời xưa, phải chăng Thị Màu đã biết đánh đúng điểm yếu (mà cũng là phẩm chất) của Thị Kính: thương người, nhân hậu, dễ mủi lòng.
Dẫu sao, với lỗi lầm của Thị Màu, điều cần nhất để mọi người cảm thông, tha thứ cho nhân vật này vẫn là thái độ hối lỗi, ân hận chân thành. Lại một lần nữa cụm từ “Đừng buồn em” được thốt lên: “Đừng buồn em, Thị Kính ơi!”. Cái cụm từ rất miền
Thị Màu đã phải trả giá cho lỗi lầm của mình bằng một cái giá thật đắt, mà hẳn Thị Kính cũng đã thấy:
“Tên em bồ hóng cửa chùa
Gỡ tai tiếng mãi đến giờ chưa bong”
Lại một lần nữa, sự cầu xin tha thứ được nhắc đến với một cách nhìn khác: Hãy bỏ qua cho em, chị nhé. Dẫu sao, nỗi oan của chị, người đời cũng đã hiểu cho. Còn em, tai tiếng Thị Màu nhem nhuốc, chịu hàng đời chê bai vẫn còn mãi. Vậy chị hãy rộng lòng tha thứ cho em nhé.
Đúng là những ưu tư của Thị Màu, rất Thị Màu. Hối hận, dằn vặt, cầu xin, mà vẫn giữ được “bản lĩnh” của một nhân vật đầy cá tính. Lời xin tha thứ thật nữ tính: năn nỉ, dịu dàng, nhưng không đánh mất bản sắc Thị Màu: biết ràng buộc, biết điều hơn lẽ thiệt. Lời cầu xin ấy chắc Thị Kính cũng dễ chấp nhận.
So sánh bài “Ưu tư Thị Màu” với “Tâm sự nàng Thuý Vân” cùng tác giả, có thể thấy Trương Nam Hương đã chọn đúng hình ảnh và từ ngữ phù hợp với nhân vật của mình. Nếu ở “Tâm sự nàng Thuý Vân”, thay lời một nhân vật của Truyện Kiều - một tác phẩm văn chương bác học, những từ ngữ, hình ảnh rất trí tuệ, sang trọng, dụng công: “đắm con đò xuân xanh”, “đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu”, “giọt máu tượng hình”, “vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò”, “đời em thể thắt một vòng oan khiên”…, thì ở “Ưu tư Thị Màu” - thay lời một nhân vật của chèo cổ dân gian, những từ ngữ, hình ảnh rất dân dã, mộc mạc, giản dị: “quả cau”, “lá trầu”, “lá răm”, “đêm rằm”, “giọt máu mồ côi”, “ăn mày cửa Phật”, “cỏ”, “bồ hóng”. Điều đó góp phần làm nên sức biểu cảm và thành công của tác phẩm.
Trần Thị Tích
Đ/c: Số 561 - Ngô Gia Tự - Tp. Bắc Ninh
ĐT: 0985560078 - Email: ditimgiacmo78@gmail.com