Bản Kiều Nôm được xem cổ nhất hiện nay là bản Kim Vân Kiều Tân Truyện Liễu Văn Ðường in năm Tự Ðức thứ 19 (1866). Tiến sĩ nghiên cứu văn học Ðào Thái Tôn đã có những phát hiện riêng thật thú vị về bản Kiều Nôm này.
Theo báo Tuổi Trẻ, trong hiện trạng tất cả bản Kiều hiện có đang ở dạng “tam sao thất bản” thì việc một số nhà “Kiều học” dành công sức mong tìm về “nguyên lời Nguyễn Du” được xem là những người có công với nền văn học.
Gọi là bản Kiều Nôm cổ nhất bởi nó được phát hiện tiếp sau bản Kim Vân Kiều Tân Truyện cũng của nhà tàng bản (khắc in) Liễu Văn Ðường in năm Tự Ðức thứ 24 (1871).
Tuy hai bản Kiều cùng chung một nhà tàng bản và chỉ khắc cách nhau trong vòng năm năm nhưng không hoàn toàn giống hệt nhau về nội dung, nét chữ khắc. Hiện bản Kiều năm 1871 thuộc trường Sinh Ngữ Ðông Phương Paris.
Còn bản Kiều năm 1866 được phát hiện cuối tháng 5/2004 trong tủ sách gia đình cử nhân Nguyễn Thế Cát (1855-1937) ở xã Thanh Lương, huyện Thanh Chương (Nghệ An), nay đã được chuyển về Ban Quản lý Di tích Nguyễn Du, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh).
Ði sâu nghiên cứu, đối chiếu, so sánh từng câu, chữ bản Kiều năm 1866 với các bản Kiều đời Tự Ðức, ông Tôn phát hiện: “Hễ ai đã để tên tuổi của mình vào bản Kiều từ Liễu Văn Ðường 1871 qua Duy Minh Thị 1872 đến Trương Vĩnh Ký 1875, hai bản vừa chữ Nôm, chữ quốc ngữ, chữ Pháp của Abels des Michels và Edmond Nordemann 1894 đến Kiều Oánh Mậu 1902 đều sửa chữa một cách có ý thức, làm tăng vốn từ ngữ Truyện Kiều!”
Thống kê trên 1,100 câu thơ lục bát (nghĩa là xác suất gần 1/3 Truyện Kiều), ông cho thấy từ ngữ mới của Truyện Kiều được gia tăng dần theo thời gian. Nếu lấy bản Kiều Liễu Văn Ðường năm 1866 làm chuẩn thì bản Kiều Duy Minh Thị đã sinh ra 326 chữ mới.
Cũng như thế, bản Kiều Trương Vĩnh Ký lấy 154 chữ mới của Duy Minh Thị và thêm 183 chữ mới khác. Vậy đến bản Trương Vĩnh Ký, kho từ ngữ mới của Truyện Kiều đã lên tới 509 chữ.
Tương tự, sau khi lấy chữ của hai người này thì Abels des Michels thêm 28 chữ mới (=537 chữ). Tiếp theo, Edmond Nordemann, sau khi tiếp thu chữ của ba người kia, thêm vào 78 chữ mới (=615 chữ). Ðến Kiều Oánh Mậu dùng một số chữ của bốn người nêu trên và đã sinh thêm 167 chữ mới khác.
Tổng cộng có 782 chữ mới được sinh ra làm Truyện Kiều cứ “tam sao thất bản” đời này qua đời khác. Ðây là nguyên nhân khiến những bản Kiều càng về sau càng xa dần bản Kiều Nôm năm 1866 đang được xem là cổ nhất.
Ông Tôn đã có chín năm đi xác minh các văn bản Kiều cổ theo phương pháp nghiên cứu văn bản học (khác hẳn với phương pháp hiệu đính cũ), tiếp nối công trình Kiều tầm nguyên (tìm về nguyên lời Nguyễn Du) do học giả Hoàng Xuân Hãn đang viết dang dở trước khi ông qua đời tại Pháp (1996).
Ông đã hoàn thành bản thảo, chuẩn bị cho ra mắt cuốn “Bản Liễu Văn Ðường 1871 và vai trò của nó trong vấn đề lịch sử văn bản Truyện Kiều” dày khoảng 650 trang trong đó có hơn 100 trang nghiên cứu văn bản học.
Nhưng khi bắt gặp, nghiên cứu tiếp bản Kiều cổ năm 1866 thì ông Tôn đã không ngần ngại dỡ bản thảo này để làm lại bắt đầu từ bản Kiều 1866.
Ông Tôn nói cuốn nghiên cứu mới nhất về Truyện Kiều của ông mang tên 'Bản Liễu Văn Ðường 1866 và vai trò của nó trong lịch sử văn bản Truyện Kiều' ra mắt bạn đọc đúng dịp giỗ 240 năm ngày mất của đại thi hào Nguyễn Du.
Lucbat.com (Sưu tầm)