Thơ lục bát là đôi chèo đẩy thuyền trên sông, là đôi bàn chân có khoảng cách trước sau, chân trước trụ xuống như câu sáu,chân sau nhón lên như câu tám, người dân vùng lúa nước của đồng bằng châu thổ, luôn biết chèo,
Chuyện bây giờ. Chuyện của thời mở cửa. Em tôi - cô gái quê - “lại lên tỉnh như hồi chị xưa”. Cứ ngỡ, em tôi chẳng làm gì nên chuyện khi con người của ngày hôm nay có cái nhìn thoáng hơn, rộng lượng và bao dung hơn.
Dân ca quan họ là loại hình nghệ thuật phong phú, độc đáo của dân tộc ta. Giá trị của dân ca quan họ cổ truyền được thể hiện không chỉ bằng những bài ca lời đẹp, hát hay, bằng phong cách lịch sự, trang nhã...
Ở Trung Quốc không có thể thơ lục bát, trong khi đó ở một số nước Đông Nam Á tồn tại thể thơ này. Riêng trong lịch sử văn học Việt Nam, thể thơ lục bát có vai trò đặc biệt và có sức sống mạnh mẽ. Có thể nói, thơ lục bát là điệu hồn của dân tộc Việt Nam.
Buồn ấy, vui ấy đâu chỉ gói gọn trong thế giới riêng tư của một cá nhân, đó là tâm trạng của cả một thế hệ. Nỗi buồn “đẫm trong lòng” ấy còn ẩn chứa cả niềm trăn trở vì cuộc đời này. Dòng sông thời gian cuốn theo tuổi trẻ, mang bao niềm vui hoà vào biển lớn.
Lục bát luôn được coi như thể thơ thuần túy Việt. Trong quá khứ, đã có nhiều thành tựu lớn về thể thơ này được nhận biết với giọng thơ riêng. Và giới chuyên môn cũng kịp tạo từ chuyên biệt để gọi: lục bát Nguyễn Du, lục bát Huy Cận…