Thứ sáu, 29/03/2024,


Vũ Nho bình thơ “Ngôi giáo làng” của Đoàn Thị Lam Luyến (22/11/2010) 

NGÔI GIÁO LÀNG

Đoàn Thị Lam Luyến

Chồng tôi quê ở miền Trung
Cái vóc thì ngắn, cái lưng thì dài
Mẹ thầy tôi cứ chê bai
Tốn cơm tốn của, tốn hoài cái duyên…

Rồi chồng tôi đỗ trạng nguyên
Danh thơm khắp nẻo ruộng vườn khỏi lo
Đáng dành một chức quan to
Chồng tôi treo ấn. Học trò theo đông

Tôi thì kế nghiệp nhà nông
Ngày ngày vác cuốc ra đồng thay trâu
Nhà tôi giầu giẩu giầu giâu
Thiếu vàng mà thấy đâu đâu cũng vàng

Ánh đèn vàng sách từng trang
Bữa vàng cháo bắp, thuở vàng con ngươi
Tôi vàng cả nước da tôi
Chồng tôi vàng võ ở ngôi giáo làng

Thế rồi tích tịch tình tang
Khi chồng tôi mất cả làng đưa ma
Cơ hồ chẳng giống người ta
Phải là bố chết, vòng hoa chật đường

Càng nghĩ tôi lại càng thương
Ước chi nhại được con đường chồng tôi.


LỜI BÌNH CỦA VŨ NHO

 

 

PGS Vũ Nho đang trao đổi với Lại Nguyên Ân, Nguyễn Xuân Khánh

tại HT Hội Nhà văn Việt Nam (Từ phải qua). Ảnh: Lucbat.com

 

Bài thơ là một câu chuyện vắn tắt về cuộc đời một ông Trạng- Giáo làng.  Các chi tiết chính: thuở hàn vi, khi đỗ trạng theo nghề giáo cuộc sống  thanh bần- giầu có, khi mất được cả làng đưa ma.
Nhà thơ đã sử dụng nhuần nhị thể lục bát để kể chuyện, và đặc biệt là chất liệu dân gian  trong ca dao. Thuở hàn vi của người chồng chỉ được lược thuật qua hình ảnh “cái vóc thì ngắn, cái lưng thì dài”. Nếu trong ca dao, anh học trò chỉ bị chê “tốn vải”, thì người chồng này bị các cụ chê nặng hơn nhiều. Những ba lần tốn. Hai cái tốn về vật chất là cơm và của. Một cái tốn về tinh thần là tốn hoài cái duyên, phí một đời… con gái rượu của các cụ.

Nhưng chớ có thấy vóc ngắn lưng dài mà nản. Chớ có thấy tốn kém vật chất, hao tổn tinh thần mà buồn. Phải nhiều chữ nghĩa và giỏi giang lắm cái anh dài lưng kia mới đỗ Trạng. Và còn đáng nể hơn nữa là tân Trạng nguyên không màng chức trọng quyền cao. Anh chỉ ưa thích làm công việc nho nhỏ nhưng có ích là làm hương sư mà dân gian gọi nôm na là giáo làng. Và vợ thì cũng không thành bà quan, mà chỉ tiếp tục làm cái nghề được xếp thứ hai trong trật tự thông thường của xã hội, nhưng cũng có thể được xếp hàng thứ nhất nếu thiên hạ mất mùa đói kém (Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ).

Điều mà người vợ tự hào nhất là ông chồng đông học trò. Chứng tỏ uy tín chuyên môn và đạo đức  rất cao. Thứ hai là sự  thanh bạch- giầu có của nghề dạy học. Vàng bốn con chín hay vàng mười thì  thiếu. Nhưng các thứ vàng khác thì “giầu giẩu giầu giâu”. Các cụ bảo “ Thư trung hữu kim ngọc” (Trong sách có vàng ngọc). Nhưng theo cách nhìn dân gian, theo cách diễn đạt nôm na thì nhà ông  Trạng- giáo “đâu đâu cũng vàng”. Này nhé: ánh đèn vàng, trang sách vàng, vàng cháo bắp, vàng mắt, vàng da, vàng võ (võ vàng, đồng nghĩa với gầy yếu, hốc hác vì lao tâm khổ tứ với công việc dạy học và cũng vì “giầu”).

Độc đáo nhất là sự vàng võ ở ngôi giáo làng. Giáo làng, về vị thế thì có khác nào giáo khổ trường tư trong sáng tác Nam Cao? Nhưng  tác giả lại  gọi cái NGÔI giáo làng. Tiếng Việt ta “Ngôi” là từ chỉ chức vị cao nhất trong thể chế xưa như ngôi vua, ngôi chúa, ngôi tể tướng… . Thế mà giáo làng cũng có ngôi. Ngôi giáo làng nhỏ bé mà thiêng liêng. Bởi thế mà ông giáo mất, cả làng đưa ma- biểu hiện của sự thương tiếc và kính trọng. Có người sẽ băn khoăn rằng tại sao lại có thêm hai câu thơ so sánh:

 

“Cơ hồ chẳng giống người ta

Phải là bố chết, vòng hoa chật đường?”

 

Người ta là ai? Vì sao lại so sánh một bên cả làng đi đưa với bên kia là vòng hoa chật đường? Phải chăng người kể chuyện muốn đối lập cái người ta lắm tiền nhiều của, hoặc chức trọng quyền cao với cái người nhỏ bé giáo làng kia? Đối lập một bên là tấm lòng với thể hiện chân chất cả làng đi đưa với cái bên vì sợ, vì nể, vì muốn lấy lòng mà gửi vòng hoa chật đường?

Người vợ ông giáo với bao nhiêu thương mến , trân trọng chồng mình, vẫn khẳng định con đường đúng đắn của ông  đáng được bắt chước, đáng được noi theo.

Câu chuyện nghe cứ như một truyện cổ dân gian, có phảng phất Giấc mơ anh lái đò của Nguyễn Bính. Cái lí lịch quê ở miền Trung của ông giáo-trạng chỉ là một địa danh phiếm chỉ mà thôi. Miền Trung là ở chỗ nào? Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh hay Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi? Người chồng của nhà thơ Lam Luyến có nét gì hao hao ông giáo trạng của nhân vật người vợ trong thơ? Có thể có người đọc muốn biết thêm những thông tin ấy. Nhưng dù không biết và không thể biết thì cũng đã rõ rằng đây là bài thơ ca ngợi người thầy, ca ngợi nghề thầy.

Ngôi giáo làng thật vô cùng quan trọng trong bất cứ xã hội nào. Giáo làng là những người khai tâm cho học trò, gieo vào tâm hồn trong trắng , thơ ngây của các em hạt mầm kiến thức và đạo làm người để các em mang theo suốt đời.

Bài thơ là một tượng đài tôn vinh người thầy, những người ở khắp mọi miền khiêm nhường, đức độ, giữ vững một nghề nghiệp vẻ vang, nhất là khi kinh tế thị trường đang biến nhiều thứ thành hàng hóa và làm đảo lộn không ít những giá trị vĩnh hằng.

 

PGS.TS VŨ NHO

 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
Các bài khác: