Chương I
CHẤT ĐỒNG QUÊ VÀ THƠ LỤC BÁT VỀ ĐỒNG QUÊ
TRONG THƠ CA DÂN TỘC

1. Khái quát chung về thơ lục bát
1.1. Cấu trúc thể loại
1.1.1. Niêm, vần, luật.
* Hệ thống phổ biến
- Trường hợp một:
Dòng/tiếng 1 2 3 4 5 6 7 8
Dòng lục - B - T - B
Dòng bát - B - T - B - B
- Trường hợp hai:
Các tiếng thứ tư, thứ sáu, thứ tám nhất định phải theo vần bằng, riêng tiếng thứ hai có thể linh động, hoặc bằng hoặc trắc.
* Hệ thống đặc biệt: Các loại biến thể.
- Biến thể vần trắc: Tiếng thứ sáu câu câu sáu và câu tám đều là vần trắc.
- Biến thể cách gieo vần: tiếng thứ sáu dòng lục lại hiệp vần với tiếng thứ tư dòng bát:
1.1.2. Về nhịp
Trong thơ lục bát, cách ngắt nhịp rất uyển chuyển nhưng thường là nhịp hai. Đôi khi lại là nhịp ba hoặc phối hợp nhiều nhịp cho phù hợp với nội dung nào đó tạo ra ngữ điệu đặc biệt.
1.1.3. Đối
Thơ lục bát không quy định nhất thiết phải có đối. Tuy vậy, đặc trưng phổ biến của lục bát lại là tiểu đối. Khi thì đối ý, đối thanh, có khi lại đối cả ý và thanh.
1.1.4. Một số biến thể trong cấu trúc của thể lục bát
Thể lục bát có nhiều biến thể ở nhiều phạm vi khác nhau như: phạm vi câu thơ, phạm vi bài thơ… Như vậy, thể lục bát là một thể thơ linh hoạt, sinh động chứ không hề khô khan và cứng nhắc.
1.2. Nguồn gốc sinh thành
Các công trình nghiên cứu về thơ lục bát và nguồn gốc sinh thành của nó xuất phát từ nhiều hướng khác nhau. Tuy nhiên, cuối cùng đều đi đến điểm chung khẳng định thể lục bát ra đời vào khoảng thế kỉ XV và là thể thơ thuần tuý dân tộc Việt.
1.3. Tiến trình thể loại
1.3.1. Lục bát từ cuối thế kỉ XV đến trước truyện Kiều.
Thơ lục bát ở giai đoạn này còn trong tình trạng chưa hoàn chỉnh, hình hài chưa cụ thể, còn xô bồ, tự do và có đôi chút lỏng lẻo.
1.3.2. Lục bát trong Truyện Kiều
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đánh dấu son cho sự mẫu mực, cổ điển của thể loại lục bát.
1.3.3. Lục bát trong phong trào thơ mới (1932-1945)
Bước vào thế kỉ XX, thơ lục bát dần chuyển sang tập trung vào khả năng chính của một thể thơ ca: chức năng trữ tình. Lục bát trong Thơ Mới(1932-1945) đã có nhiều cách tân đa dạng về cả hình thức thể hiện cũng như nội dung biểu đạt.
1.3.4. Lục bát từ sau 1945.
Thơ lục bát vẫn kế tục được truyền thống, đồng thời có những cách tân, đổi mới để ngày càng phù hợp hơn. Đến nay, thể lục bát vẫn được người say thơ, yêu thơ ưa chuộng. Đằng sau những giây phút ồn ã, sôi động của cuộc sống mới đang hiện đại hoá, hồn thơ lục bát vẫn là những người bạn tâm tình, san sẻ với con người Việt những tâm sự sâu lắng.

2. Chất đồng quê, một đặc điểm tạo nên bí quyết sinh tồn của thể thơ lục bát.
Chất đồng quê không chỉ là kết quả của sự mô tả, sự phản ánh, sự thể hiện các cảnh quê, tình quê như là chất liệu của nghệ thuật, của thơ ca mà nó còn đòi hỏi một quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ đặc thù, đòi hỏi sự thể hiện và khẳng định đồng quê như cội nguồn của các giá trị nhân văn tích cực như cái đẹp, cái thiện. Có thể hiểu: chất đồng quê trong thơ ca là kết quả của quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ đặc thù kết tinh từ những giá trị nhân văn tích cực của cuộc sống con người đồng quê, mà sự mô tả, phản ánh, thể hiện các cảnh quê, tình quê chính là những biểu hiện cụ thể nhất.
Nói như thế, chất đồng quê trong thơ ca phải được nhìn nhận và đề cập đến từ hai khía cạnh: Nhận thức luận và giá trị luận. Một nền nghệ thuật thấm đượm chất đồng quê không chỉ đơn thuần lấy đồng quê làm đối tượng mô tả, phản ánh mà còn bởi nó biết chắt lọc ra từ cuộc sống đồng quê những giá trị nhân sinh và thẩm mĩ tích cực được nâng lên thành một quan niệm sống, một cách nhìn thế giới và con người.
So với các thể thơ khác, thể lục bát có thế mạnh hơn cả trong việc thể hiện chất đồng quê. Ngay từ cấu trúc âm luật sáu- tám nhẹ nhàng, mượt mà, giản dị, hài hoà, dễ phối thanh, thể lục bát vốn dĩ đã rất gần gũi lối nói của người dân quê, dễ nghe, dễ nhớ. Phù hợp với cảm xúc, lối sống của con người Việt
---------------
Tác giả Phạm Mai Phong
Trích luận văn: Chất đồng quê trong thơ Lục bát Việt
(Qua thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn)