Thứ sáu, 29/03/2024,


Mẹ ơi - Một bài thơ hay trong “cõi thơ” viết về mẹ (03/04/2016) 

 

MẸ ƠI


Nguyễn Ngọc Hưng

 

Thềm rêu thầm giữ dấu chân
Vách thầm giữ bóng
Chăn thầm giữ hơi
Chiều, con mắt lệ đầy vơi
Giọt dài giọt vắn
Mẹ ơi, khóc thầm…

Xưa hai đôi đũa một mâm
Giờ hai đôi đũa …con cầm một đôi
Còn một đôi đũa mồ côi
Nghẹn ngào con nuốt cho trôi chén buồn!
N.N.H
(Đăng trên báo Đà Nẵng ngày 18/3/2016
)

 

 

Mẹ ơi - Một bài thơ hay trong “cõi thơ” viết về mẹ

  Vẫn nghe đâu đây lời hát “Rủi mai này mẹ hiền có mất đi/ Như đóa hoa không mặt trời/ Như trẻ thơ không nụ cười/ Ngỡ đời mình không lớn khôn thêm/ Như bầu trời thiếu ánh sao đêm” (Phạm Thế Mỹ). Ca từ trên làm xao động lòng người về dự cảm “rủi mai này mẹ hiền có mất đi”. Còn cảm xúc mẹ hiền đã mất thì sao? Hãy tìm đến thơ Nguyễn Ngọc Hưng.

   Nguyễn Ngọc Hưng là nhà thơ đương đại có cuộc đời đầy bi kịch. Ở tuổi đời 23, anh đã bị buộc chân vào giường bệnh bởi căn bệnh hiểm nghèo. Chỉ mấy năm sau thời điểm này mẹ anh qua đời. Nỗi đau mất mẹ là cảm xúc mãnh liệt tạo nên hồn cốt cho chùm thơ viết về mẹ của Nguyễn Ngọc Hưng mà tiêu biểu là bài “Mẹ ơi” (Đăng trên báo Đà Nẵng ngày 18/3/2016).

   Làm thơ, Nguyễn Ngọc Hưng dùng nhiều thể loại. Nhưng viết về mẹ, anh thường sử dụng thể thơ truyền thống: thơ lục bát. Thơ lục bát mang hơi thở của ca dao và âm điệu của lời ru. Có bà mẹ nào mà không từng ru con bằng câu thơ lục bát ? Chọn thể thơ này để viết về mẹ, có phải nhà thơ muốn suốt đời giữ mãi lời ru của mẹ, nguồn sữa nuôi dưỡng tâm hồn mình? Bài “Mẹ ơi” được viết theo thể thơ lục bát cách tân, có chỗ ngắt dòng, vắt câu theo dụng ý nghệ thuật của tác giả.

   Mẹ mất rồi, đó là thực tế không thay đổi được. Thương nhớ mẹ không nguôi cũng là điều hiển nhiên khi không còn mẹ nữa. Nhớ mẹ thì phải đi “tìm mẹ”. Có nhiều hướng tìm. Riêng ở bài thơ này, nhà thơ đã tìm mẹ ở:


“Thềm rêu thầm giữ dấu chân
Vách thầm giữ bóng
Chăn thầm giữ hơi”


   Ban ngày tìm “dấu chân” mẹ ở “thềm rêu”. Đêm đến tìm “bóng”mẹ ở “vách” nhà. Đông về tìm “hơi” mẹ ở “chăn”. Không đâu xa cả, chỉ quanh quẩn đây thôi, rất gần đây thôi. Nhưng đó lại là nơi gieo neo, trơn trợt (thềm rêu), nơi ghi dấu mẹ khó mỏi nhọc nhằn (vách nhà in bóng mẹ trong những đêm thức trắng canh giấc cho con) và trong những đêm đông lạnh lẽo (chăn đắp). Và dù mẹ hiện ra trong tình huống nào thì cũng “thầm” thôi. Mẹ là thế mà! Cứ âm thầm lặng lẽ hy sinh vì con. Dù nhọc nhằn, khó khổ đến đâu, dù gieo neo, gian nan đến mấy cũng “thầm”, không một lời than vãn như trong một bài thơ khác Nguyễn Ngọc Hưng có viết: “Cho con rạng rỡ trăng rằm/ Quản gì lặng lẽ… tối tăm vạc cò” (Mùa vu lan nhớ mẹ). Từ “thầm” được nhắc lại ba lần trong cặp lục bát mở đầu là lời khẳng định đức hy sinh thầm lặng của mẹ. Công ơn trời bể đó con nguyện “giữ” mãi trong lòng. Từ “giữ” được lặp lại ba lần ở ba dòng thơ không phải để nói về “thềm rêu”, “vách”, “chăn” mà là để nói về con đó. Làm con phải khắc cốt ghi tâm ơn đức của đấng sinh thành.

   Trở lại với từ “thầm”, cũng có thể hiểu đó là nỗi “thương thầm”, “nhớ thầm” của con đối với mẹ. Mẹ ra đi bỏ con lại một mình không người thân thích, lấy ai con tâm sự nỗi niềm thương nhớ này mà không “thầm”cơ chứ. Lặng thầm, âm ỉ, dồn nén mãi đến lúc nhớ thương cũng vỡ òa:


“Chiều, con mắt lệ đầy vơi
Giọt dài giọt vắn
Mẹ ơi, khóc thầm…”


   “Mắt lệ đầy vơi”, “giọt dài giọt vắn”, “khóc thầm”, ngòi bút của Nguyễn Ngọc Hưng không phải viết mà là vẽ. Vẽ lên một bức tranh tâm trạng đầy nước mắt bằng ngôn từ. Nên đọc thơ mà như “nhìn thấy” được nỗi lòng của người con mất mẹ: tột cùng thương nhớ, tột cùng xót đau! Nỗi niềm ấy lại “cộng hưởng” bởi cái hắt hiu của buổi “chiều” nữa nên buồn lại càng buồn hơn, đau xót lại càng xót đau hơn.

   Đã thươg nhớ thầm thì cũng “khóc thầm” thôi. Khóc mà không thoát thành tiếng nên nó cứ “rung” lên trong lòng con thê thiết lắm. Từng cơn… từng cơn nức nở kéo dài… kéo dài mãi không dứt. Dấu chấm lửng (…) đặt cuối dòng thơ đã nói lên điều này. Chính ngay trong cơn nức nở ấy, từ nơi sâu thẳm nhất lòng con bật thốt “Mẹ ơi”. Tiếng “Mẹ ơi” bật lên như một phản xạ tự nhiên khi lòng con chất ngất nỗi buồn đau thương nhớ mẹ. Mẹ là sự sống của con. Mất mẹ là con mất tất cả, mất những gì thiêng liêng nhất đời con. Có phải con muốn nói với mẹ mình như thế trong giây phút này không? “Mẹ ơi”, với con, còn có tiếng gọi nào thiết tha, trìu mến, thiêng liêng hơn tiếng gọi này! Vậy nên, khi viết về mẹ, nhiều nhà thơ cũng thường nhắc “Mẹ ơi”. Nhà thơ Bùi Nguyễn Trường Kiên viết về người mẹ quá cố của mình “Hàng ngàn lần “Mẹ ơi !”… ta gọi khẽ”, nhà thơ Đặng Minh Mai cũng thế “Đêm đông thương mẹ… khóc òa… mẹ ơi”.Và “Mẹ ơi” đã trở thành tiêu đề cho bài thơ này có phải vì nó mang ý nghĩa ấy?

  Nỗi nhớ thương mẹ còn được bộc lộ rất xúc động qua những dòng thơ cuối:


“Xưa hai đôi đũa một mâm
Giờ hai đôi đũa…con cầm một đôi
Còn một đôi đũa mồ côi
Nghẹn ngào con nuốt cho trôi chén buồn!”



   Một hiện tượng thường thấy ở người Việt Nam ta là đến bữa cơm thường nhật gia đình, họ không quên đặt chén đũa cho người đã khuất xem như “người ấy” vẫn “còn” cùng gia đình dùng bữa. Hiện tượng này phản ánh một nét văn hóa trong đời sống tâm linh đáng trân quý. Trân quý ở tấm lòng của người sống đối với người đã khuất. Người con trong bài thơ này cũng thế. Gia đình chỉ có hai mẹ con nên “Xưa hai đôi đũa một mâm” đầm ấm vui vầy. Nhưng “Giờ hai đôi đũa… con cầm một đôi”. Câu thơ bị ngắt làm đôi bởi dấu chấm lửng (…) đặt giữa. Dấu chấm lửng đó có phải là khoảng lặng… đợi chờ. Lúc xưa, chẳng phải khi dùng bữa mẹ là người cầm đũa trước con. Giờ con vẫn “chờ” mẹ như thế. Nhưng chờ mà vô vọng nên con đành phải “cầm một đôi”. Và cũng trong lúc này đây, con ngậm ngùi nhận ra rằng mình đã mồ côi. Vì thế “Còn một đôi đũa” trên mâm, trong mắt con, đã trở thành “đôi đũa mồ côi”. Đôi đũa ấy như mũi kim chọc vào tim con khiến “Nghẹn ngào con nuốt cho trôi chén buồn”. “Chén buồn” là hình ảnh thơ được liên tưởng từ “chén cơm”. Buồn đau vốn là cái vô hình nhưng qua “chén buồn”, nỗi buồn đau bỗng trở nên đậm đặc có thể nắm bắt được, “nuốt” được. Vậy ra, dùng bữa, con không nuốt cơm mà là “nuốt” buồn đau vào dạ. Lòng con vốn đã chất chứa buồn đau, giờ phải “nuốt” thêm nó vào nữa thì… ăm ắp… ! Cuộc đời con còn bao nhiêu bữa cơm, còn bao nhiêu “chén buồn” nữa con phải nuốt? Con không đếm được mà chỉ biết một điều rằng mất mẹ con buồn đau, thương nhớ suốt đời.

   Dùng hình ảnh bữa cơm để bộc lộ nỗi nhớ thương mẹ là cách thường thấy trong thơ viết về mẹ. Nhà thơ Đặng Minh Mai “Bữa cơm trống chỗ ngồi của mẹ/ Bát canh cua lặng lẽ con phần/ Nhìn lên di ảnh tần ngần…”. Nguyễn Ngọc Hưng cũng nói đến bữa cơm nhưng anh không dùng nhiều hình ảnh như thế mà chỉ có “một đôi đũa mồ côi”. Tự thân của hình ảnh thơ này đã cất tiếng nói: mẹ mất rồi con phải mồ côi. Mà “mồ côi tội lắm ai ơi” (Trần Long Ẩn). Càng tội hơn đối với tình cảnh mẹ mất mà con thì nằm một chỗ. Hình ảnh “đôi đũa mồ côi” không chỉ chọc vào tim người con mà còn lấy đi nước mắt bao người khác. Nhà thơ còn khéo léo đặt hình ảnh “đôi đũa mồ côi” trong thế đôi lập: xưa/ giờ ; hai (đôi)/ một (đôi) nên “đôi đũa mồ côi” càng “mồ côi” thêm gấp bội phần.

   Viết về mẹ, Đỗ Trung Quân cũng có nhiều câu thơ hay “Ai mất mẹ?/ Sao lòng ta hoảng sợ/ Tiếng khóc kia bao lâu nữa/ Của mình”. Vì sao nhà thơ Đỗ Trung Quân phải “hoảng sợ” khi “Ai mất mẹ”? Bài thơ “Mẹ ơi” của Nguyễn Ngọc Hưng là câu trả lời. Mất mẹ đau xót lắm. Nỗi đau ấy đi suốt cả đời con. Vì thế bài thơ chỉ có tám câu lục bát mà chỗ nào cũng đong đầy nước mắt: “mắt lệ đầy vơi”, “giọt dài giọt vắn”, “khóc thầm”, “nghẹn ngào”, “chén buồn”. Mẹ mất đã gần ba mươi năm rồi còn gì, vậy mà trong lòng nhà thơ vẫn còn đấy nỗi đau. Vẫn còn đấy tiếng “khóc thầm” âm âm mãi, vẫn còn nuốt “chén buồn” mỗi bữa cơm. Và tiếng “Mẹ ơi” vẫn cứ vang vọng như tiếng xé… lòng. Bài thơ “Mẹ ơi” là nén nhang lòng nhà thơ thắp vọng mẹ mình. Hương khói từ nén nhang này lan tỏa… lan tỏa… chạm vào lòng người đọc khiến họ không cầm được nước mắt. Nhất là đối với những ai đã cài lên ngực mình đóa hoa hồng trắng thì càng phải cám ơn “Mẹ ơi” đã nói hộ lòng mình.

   “Thơ viết về mẹ thì nhiều, cảm xúc về mẹ ai chẳng sâu đậm nhưng để có thơ hay về mẹ thì rất hiếm” (Báo Đà Nẵng). Đúng vậy, cảm xúc sâu đậm tạo nên hồn cốt bài thơ nhưng để lay động lòng người thì phải có cái tài của người viết. Bài “Mẹ ơi” của Nguyễn Ngọc Hưng đã thực sự “đánh thức, lay động bao nỗi lòng người đọc vì bài thơ “không dễ dãi, sáo mòn, lục bát tươi mới, tinh tế và đầy cảm xúc” (Báo Đà Nẵng). “Mẹ ơi” của Nguyễn Ngọc Hưng quả là bài thơ hay trong “cõi thơ” viết về mẹ!


TP. Hồ Chí Minh 23/3/2016
Tuệ Mỹ.


 

Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
  Nguyễn Ngọc Hưng  - nguyenngochung@gmail.com  - 0553861312 - Đội 10, thị trấn Chợ Chùa, Nghĩa Hành, Quảng Ngãi  (Ngày 21/10/2016 12:02:59)

CHÂN THÀNH CÁM ƠN TUỆ MỸ ĐÃ CỘNG HƯỞNG RẤT TÂM HUYẾT VỚI "MẸ ƠI"!

CHÂN THÀNH CÁM ƠN BẠN Trần Văn Bảo Chung ĐÃ ĐỒNG CẢM!

  Trần Văn Bảo Chung - chung2003tran@gmail.com - 01635957243 - Thành Phố Vinh ( Nghệ An )  (Ngày 29/07/2016 20:59:01)

Trong cuộc đời , tôi chưa thấy bài thơ nào xúc động như bài thơ " Mẹ ơi" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng. Tôi nghĩ ai cũng phải nghẹn ngào khi đọc bài thơ đầy ý nghĩa này huhu...

Các bài khác: