NAM MÔ
Nam mô… cần nước, ngò gai
Chúng mày đừng héo, bà mày đang đau
Cơn mưa còn duỗi nơi nào
Bà cong gàu nước từng gàu xót xa
Nam mô… xanh luống rau nhà
Để bà có cái đồng ra đồng vào
Chiều cong theo vạt áo nâu
Thúng rau quằn nặng những câu chào mời
Nam mô… con cháu xa xôi
Đứa nghèo đứa khổ cuộc đời áo cơm
Quê mùa côi cút rạ rơm
May còn cần nước, ngò thơm thì thầm
Nam mô… ráo một chỗ nằm
Hạt mưa còn hỏi xa xăm ông trời
Nam mô gần cuối cuộc đời
Bà đang vẫn trẻ những lời… nam mô
Nguyễn Thanh Hải
Thanh Hải là một nhà thơ trẻ Tiền Giang. Nếu có lần bạn bước vào thế giới thơ của anh, sẽ thấy, bát ngát một khoảng trời Tây Nam Bộ, hoặc mênh mông một tấm lòng người mẹ, người chị, người bà vất vã nhọc nhằn mà đằm thắm yêu thương. Bài thơ Nam mô là một ví dụ.
Nhan đề bài thơ là Nam mô. Đây là câu niệm của các Phật tử. Câu niệm đầy đủ là Nam mô A-di-đà Phật. Theo các nhà nghiên cứu Phật học, Nam mô A-di-đà Phật nguyên là một câu niệm được phiên âm từ tiếng Phạn. “Nam mô” là đem thân tâm về qui ngưỡng Phật, Pháp tức Quy y. Nam Mô có 6 nghĩa: kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng. A Di Đà là tên một vị Phật. Người có lòng tin vào Quán Thế Âm Bồ Tát - vị đại Bồ Tát có lòng thương rộng lớn, thường lắng nghe sát tiếng kêu cầu đau khổ của chúng sinh trong thế gian mà thị hiện cứu độ - thì niệm Nam mô đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát. Thế thì, Nam mô trong bài thơ của Thanh Hải là gi?
Nam mô… cần nước, ngò gai
Chúng mày đừng héo, bà mày đang đau
Cơn mưa còn duỗi nơi nào
Bà cong gàu nước từng gàu xót xa
À, thì ra Nam mô ở đây là lời thủ thỉ của nhân vật trữ tình, người con, người cháu với “cần đước”, “ngò gai”. Cần đước, ngò gai là tên của những loại rau quen thuộc của người miền Tây. Nhưng với nhân vật trữ tình trong bài, chúng còn là bạn – những người bạn nhỏ, nên mới gọi “chúng mày” và ra lệnh “đừng héo”. Thanh Hải đang thổi hồn người cho cây cỏ trong vườn bà. Mấy chữ cuối trong câu bát chùn lại với 4 thanh bằng đi liền nhau “bà mày đang đau” đầy lo âu, như một tiếng thở dài. Rau rất cần nước, trời lại nắng, còn mưa thì hình như rất vô tâm, đang thoải mái la cà, rong chơi đâu đó “còn duỗi nơi nào” để bà phải xách từng gàu, từng gàu tưới xanh tươi rau. “Bà cong gàu nước”, người đọc tưởng chừng thấy cái gàu nước cũng cong theo tấm lưng còng khó nhọc của bà. “Gàu nước” rồi “từng gàu”, vất vã, khó nhọc biết bao nhiêu. Chừng như không thể kìm nén, câu thơ bật thành tiếng nức nở xót xa…
Khổ thơ tiếp theo, vẫn với tiếng nam mô, người cháu nói thay bà những ước mơ nhỏ nhoi của phận nghèo :
Nam mô… xanh luống rau nhà
Để bà có cái đồng ra đồng vào
Người ta thì mơ tiền muôn bạc vạn, còn bà tôi chỉ dám mơ “có cái đồng ra đồng vào” ! Ừ, làm sao có thể mơ tiền muôn bạc vạn được khi gánh hàng của bà chỉ là rau! Kìa, dáng bà đang gánh mớ rau xanh từ nhà ra chợ
Chiều cong theo vạt áo nâu
Thúng rau quằn nặng những câu chào mời
Câu thơ “Chiều cong theo vạt áo nâu” là một sáng tạo độc đáo của Thanh Hải. Nói đến tuổi già người ta thường nói đến mái tóc bạc. Thanh Hải phát hiện tuổi xế chiều của bà ở tấm lưng qua đường cong của vạt áo nâu. Phải đổ mồ hôi mới có được gánh rau. Nhưng bán được gánh rau ấy để có “đồng ra đồng vào” mà thực chất chỉ bằng những đồng tiền lẻ của người giàu thì cực nhục trăm chiều. Phải mời mọc, phải ngọt ngon, phải năn nỉ ỉ ôi, thậm chí than thở với từng người, từng người một… Mà chắc gì đã bán được mớ rau! Thanh Hải tế nhị dồn giấu “Thúng rau quằn nặng những câu chào mời”
Đến khổ thơ thứ ba, từ lời người cháu, Thanh Hải để người bà trực tiếp tâm sự chuyện gia đình mình. Chuyện của người đàn bà quê có gì ngoài chuyện con, chuyện cháu? Toàn chuyện buồn rớt nước mắt :
Nam mô… con cháu xa xôi
Đứa nghèo đứa khổ cuộc đời áo cơm
Mẹ đã nghèo thì cháu con sao được giàu sang? Cái nghèo, cái khổ đeo đẳng từ đời mẹ đến đời con cháu như số phận truyền kiếp. Thế mà bà vẫn không gục ngã bởi bà vẫn những hi vọng
Quê mùa côi cút rạ rơm
May còn cần nước, ngò thơm thì thầm
Bà niệm nam mô, có thể là Nam mô đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát nhưng lại tin “May còn cần nước, ngò thơm thì thầm”. Rất đời.
Trong lời tự kể của bà, ta thấy rõ nỗi lo và nghị lực của người phụ nữ Việt Nam.
Khổ thơ cuối cùng dập dồn tiếng Nam mô của người cháu với mơ được ngủ yên trong đêm mưa
Nam mô… ráo một chỗ nằm
Hạt mưa còn hỏi xa xăm ông trời
Một mơ ước bình thường thậm chí nhỏ nhoi giống như thằng Bờm chỉ muốn được nắm xôi!
Hai câu thơ cuối, người cháu có một cái nhìn ngộ nghĩnh nhưng xa xót về bà của mình
Nam mô gần cuối cuộc đời
Bà đang vẫn trẻ những lời… nam mô
Phải chăng cháu ước muốn bà luôn trẻ để sống mãi với cháu con? Câu thơ không một chữ thương mà sao vẫn thấy yêu thương ngập tràn!
Thanh Hải đã chọn thơ lục bát để viết về bà. Đó là hình ảnh một phụ nữ truyền thống mà ta dễ bắt gặp trong cuộc sống đời thường. Nhịp thơ chẳn, đều đặn gợi âm thanh tiếng gõ mỏ, tụng kinh của con người phật. Tiếng nam mô lặp đi lặp lại không dứt và càng về cuối càng dày hiển hiện những ước muốn bình thường của những người khốn khổ trong cuộc đời. Ngôn ngữ thơ dung dị, đời thường mà cũng rất sáng tạo và tinh tế. Thanh Hải có lúc nhập vào vai người cháu, có lúc vào vai người bà một cách tự nhiên để bày tỏ lòng yêu thương, quí trọng với những người bà, người mẹ Việt Nam vất vã tảo tần mà ngời sáng yêu thương và đức hi sinh. Trong ý nghĩa đó, Bà chính là Phật sống, Phật của đời thường.
NGUYỄN KIM LOAN
Trường THPT Vĩnh Bình – Gò Công tây – Tiền Giang