Thứ năm, 25/04/2024,


Vẻ đẹp Lục bát – Sử thi trong LỤC BÁT NGÀN NĂM (Đặng Kim Thanh) (12/10/2012) 
              Có lẽ trong kho tàng thơ ca dân tộc, lục bát là một trong những thể thơ thân thuộc gần gũi với chúng ta nhất. Vậy mà khi đọc bài thơ Lục bát ngàn năm của nhà thơ Trần Thế Tuyển ta lại thấy có nhiều điểm lạ. Cái lạ bắt đầu từ tựa đề Lục bát ngàn năm. Sao lại lục bát ngàn năm? Nếu ngàn năm là để nói về sự kiện Kỷ niệm ngàn năm Thăng Long – Hà Nội thì sẽ lí giải như thế nào về việc chọn lục bát trong kết hợp Lục bát ngàn năm… Bạn cũng sẽ tự hỏi: Có gì mâu thuẫn khi sử dụng một thể thơ dân tộc rất mềm mại, uyển chuyển để diễn tả không khí của một thời kì lịch sử độc nhất vô nhị! Có gì lạ trong cặp lục bát:

Một ngàn năm vẫn còn trinh
Câu thơ lục bát, trúc xinh bên đình.
 
        Nhưng, hãy đọc bài thơ và tưởng tượng đi, bạn sẽ có chìa khoá giải mã:
 
 

LỤC BÁT NGÀN NĂM

 

 
Một ngàn năm bấy nhiêu ngày
Câu thơ lục bát vẫn say hồn người.
 
Nghe trong thơ có tiếng cười
Cái đêm gió núi thúc thôi ngựa hồng.
 
Nghe trong thơ có tiếng cồng
Chiếu vua ban cả núi sông chuyển mình.
 
Một ngàn năm vẫn còn trinh
Câu thơ lục bát, trúc xinh bên đình.
 
Để Rồng bay đất kinh thành
Gieo bao truyền thuyết sử xanh cõi bờ.
 
Để ngàn năm những câu thơ
Sáu nhịp ước, tám nhịp mơ yên bình.
 
Để ngàn năm những mối tình
Hoàng bào trao gửi, phú vinh chia đều.
 
Một ngàn năm chẳng bao nhiêu
Bao nhiêu huyền thoại, bấy nhiêu nỗi lòng.
 
  Trần Thế Tuyển
 

 

         
Nhà thơ đã mở đầu bằng giọng thơ ngọt ngào nhưng hàm chứa ý khẳng định mạnh:
  
Một ngàn năm bấy nhiêu ngày
Câu thơ lục bát vẫn say hồn người.
 
      Câu thơ lục bát là tiếng lòng bồi hồi, đau đáu, thiết tha về  ngàn năm. Có lẽ tâm sự bồi hồi, đau đáu, thiết tha lại chính là chất SAY HỒN NGƯỜI  mà ta sẽ cảm nhận được trong dòng cảm xúc : Đọc, suy ngẫm, và tưởng tượng…
      Cả một không gian huyền thoại sẽ xuất hiện nhờ 8 cặp lục bát trong bài thơ. Đó không còn là ngôn từ cụ thể mà biến thành những câu chuyện kể đậm đà màu sắc truyền thuyết của dân tộc, của Thăng Long ngàn năm văn hiến. Có lẽ chất tự sự trữ tình vốn có trong thể lục bát và cái tình của nhà thơ hoà tan vào Lục bát ngàn năm đã khiến sự thực lịch sử có thêm chất huyền thoại. Ta như có cảm tưởng hư hư thực thực khi đọc bài thơ.              
       Lấy lục bát làm nền để nói về những biến động mang tầm sử thi của dòng lịch sử hàng ngàn năm, tác giả hình như hơi mạo hiểm. Nếu chỉ non tay một chút, bài thơ sẽ thuần chất trữ tình mang âm hưởng dân gian thuần tuý, … Nhưng lạ thay, Lục bát ngàn năm đã vượt qua điều ấy. Vẻ đẹp của những câu lục bát và cảm hứng sử thi được bộc lộ qua đề tài (tựa đề), không khí, cấu trúc, ngôn từ, … mà đặc biệt là giọng thơ – giọng của người trong cuộc.  
        Cái hay của nhà thơ là đã kết hợp khá tài hoa sự duyên dáng, trữ tình, tinh nghịch của lục bát với nét hào hùng của những sự kiện mang tầm vóc quốc gia:
 
Nghe trong thơ có tiếng cười
Cái đêm gió núi thúc thôi ngựa hồng.
Nghe trong thơ có tiếng cồng
Chiếu vua ban cả núi sông chuyển mình.
 
         “Nghe trong thơ” được nói thật thiêt tha và cả “tiếng cười, tiếng cồng”… nữa cũng làm ta xao xuyến. Sự kiện vua Lý Công Uẩn viết Chiếu dời đô và đặc biệt việc dời đô mang tầm vóc quốc gia đã được các sử gia nói đến bằng những pho sử. Nhưng với nhà thơ, chỉ bằng cặp câu lục bát 14 chữ mà ta như vẫn thấy hình ảnh của đất nước năm 1010 đang dậy lên tiếng chiếu vua ban và núi sông chuyển mình vào vận hội mới… Phải chăng, đó là nét riêng trong cách thể hiện giữa lịch sử và thơ ca?
        Chẳng biết có phải chất lửa và tình cảm nồng nàn của người lính phóng viên chiến trường năm xưa đã mách bảo nhà thơ không mà hào khí Thăng Long và sức sống của dân tộc Việt được vang lên từ hình ảnh, tiết tấu của các cặp lục bát lại thắm thiết chất trữ tình làm ta bồi hồi xúc cảm…
Đặc biệt từ cặp lục bát thư 5, mạch thơ dồn dập hơn, những thông tin nghệ thuật đầy ắp sự kiện trọng đại như những dấu son đáng tự hào. Hình ảnh Rồng bay đất Kinh thành xuất hiện mở ra một trang mới trong lịch sử dựng nước, khẳng định tài đức, trí dũng của bậc minh quân:
 
Để Rồng bay đất kinh thành
Gieo bao truyền thuyết sử xanh cõi bờ.
                                                                         
           Những câu thơ lắng đọng vẻ đẹp của lịch sử với bao truyền thuyết đẫm lệ nhân tình như dẫn ta vào không gian huyền thoại của Thăng Long Đông Đô - Hà Nội … Hãy tưởng tượng và suy ngẫm… Ông cha ta và cả chúng ta nữa đã sống và làm nên lịch sử với khát vọng:                                
                                      
Để ngàn năm những câu thơ
Sáu nhịp ước, tám nhịp mơ yên bình
 
Để ngàn năm những mối tình
Hoàng bào trao gửi, phú vinh chia đều.
 
           Ta như cảm được tiết tấu âm nhạc từ những vần thơ lục bát nhỏ xinh, đằm ngọt chất dân ca. Tác giả cũng thật tinh tế khi giao hoà vẻ đẹp của nghệ thuật thơ lục bát với vẻ đẹp giàu tính nhân văn… Công chúa Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của triều đình nhà Lý, nguồn đề tài và cảm hứng của bao nghệ sĩ, sử gia cũng hiện lên thật giản dj mà giàu sức gợi, neo vào tim ta một dấu lặng dài…
 
          Lục bát ngàn năm khép lại với hai câu thơ quen mà lạ, tưởng chừng đơn giản mà chẳng giản đơn chút nào:     
 
Một ngàn năm chẳng bao nhiêu
Bao nhiêu huyền thoại, bấy nhiêu nỗi lòng.
   
          Nhà thơ muốn gửi thông điệp nào đây? … Hay đó là NỖI LÒNG được cảm nhận từ bao nhiêu huyền thoại của ngàn năm ấy… Bất giác, linh cảm mách bảo ta đọc lại bài thơ…nhiều lần… Và khi ta cảm thấy mình hoà vào mạch cảm xúc thơ…, đang sống với những thăng trầm của ngàn năm Thăng Long Hà Nội… thì bỗng một điều kì diệu đến. Ta đang đi trong khu rừng đẹp như cổ tích, non xanh nước biếc ngào ngạt hương hoa ngọc lan… Phía xa, vua Lý Công Uẩn , Lý Chiêu Hoàng, Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ và rất nhiều giai nhân, tài tử, khoan thai đàm đạo và… mỉm cười với ta. Riêng thi hào Nguyễn Du đăm chiêu đưa cho ta một bức hoa tiên nhỏ và khi ta quá bối rối chưa biết nói chi thì tiếng chuông điên thoại di động reo!...Ta giật mình nhận ra mình ngủ gục trước màn hình máy tính… Bài viết vẫn dở dang… Định thần lại, ta bỗng ngộ ra hình như mình đã quá say cái hào hùng của lịch sử ngàn năm mà quên rằng: ngàn năm và khoảnh khắc, huyền thoại và nỗi lòng, vinh quang và cay đắng, nghĩa vụ quốc gia và hạnh phúc cá nhân… luôn là ẩn số, cội nguồn bi kịch nhân loại.
          Nhà thơ là ai nếu chẳng trải lòng mình cảm thông cùng bao nỗi niềm ẩn chìm dưới bóng dáng kì vĩ của Chiến công, Quyền lực, sự hưng vong của một triều đai, một dân tộc. Hào quang của Vòng Nguyệt quế… nhiều khi phả trả giá bằng biết bao đau đớn của con người. Những số phận như Lý Chiêu Hoàng, Nguyễn Thị Lô, Nguyễn Trãi và cả Nguyễn Du …vẫn luôn là mạch nguồn cảm hứng, là nỗi đau nhân tình của thi nhân đọng trong tiếng lục bát ngàn năm… Những điều khối óc và trái tim muốn nói cùng nhau, nhà thơ đã thể hiện bằng sự tinh tế, đắm say. Lịch sử ngàn năm Thăng Long – Hà Nội với những sự kiện đặc thù, những nét ca dao chân chất, tinh khôi, những nhân vật lịch sử đậm màu huyền thoại đã được lục bát chắp cánh… Có lẽ phải yêu Hà Nội và yêu những câu lục bát say đắm vô cùng, nhà thơ mới chọn Lục bát để gửi hồn thơ…  Và Lục bát ngàn năm đã uyển chuyển hoà quyện Vẻ đẹp của Lục bát cùng Chất sử thi vào nguồn mạch cảm xúc của những câu thơ lục bát say lòng người… Bạn hãy cùng chiêm nghiệm nhé:
           
Một ngàn năm bấy nhiêu ngày
Câu thơ lục bát vẫn say hồn người.
(…)
Một ngàn năm chẳng bao nhiêu
Bao nhiêu huyền thoại, bấy nhiêu nỗi lòng.
 
Mùa Thu, năm Rồng
Đặng Kim Thanh
Chia sẻ:                   Gửi cho bạn bè
Mỗi độc giả cũng là một tác giả
(Mời bạn cho ý kiến, cảm nhận và lời bình sau khi đọc bài viết trên)
Họ và tên  *
Địa chỉ  *
Email  *
Điện thoại  *
Nội dung (bạn cần sử dụng font chữ Unicode, có dấu; ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ, email, điện thoại,... Nếu thiếu các thông tin đó, có thể chúng tôi sẽ từ chối cho hiển thị
 
  Nguyễn Xuân Ngọc - nguỹenuanngoc661939@gmail.com - 01677225720 - Hiệp Sơn, Kinh môn, Hải Dương  (Ngày 30/09/2013 16:46:24)

LỤC BÁT NGÀN NĂM
Một ngàn năm một vạn năm
Câu thơ lục bát vẫn nằm trong dân
Tiếng cười, vó ngựa Biên cương
Reo ca tiếng mõ ngân vang tiếng đàn

Hịch non sông chiếu vua ban
Bốn ngàn năm hiện vẫn còn cùng ta
Nơi rồng bay chốn rồng sa
Trúc xinh vẫn hát cây đa mái đình

Bao nhiêu truyền thuyết Sơn Tinh…
Áo bào giáp sắt sử xanh anh hùng
Những là tương ngộ tương phùng
Sáu nhịp ước. tám nhịp mong tài tình

Bốn ngàn năm bấy nhiêu tình
Áo bào nghèo khó phú vinh …gửi về
Xuân Ngọc
Ngày30/09/2013

Các bài khác: