Qua nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh, tôi được gặp Trương Nam Chi và được tặng hai tập thơ của chị: “Lạc duyên” và “Dốc thiêng”. Hóa ra Trương Nam Chi có một lộ trình số phận tương tự như tôi. Cũng tốt nghiệp Đại học Kỹ thuật, cũng khoác áo lính, cũng lĩnh lương thiếu tá trước khi ra quân… và cũng làm thơ. Tôi đọc “Lạc duyên” với lời giới thiệu của ông bạn Lê Quang Trang. Nhận ra chất nữ tính trong thơ chị khá mạnh. Nhưng “Lạc duyên” vẫn còn nặng suy tưởng, thi ảnh chưa bén sắc để có thể nhận ra đằng sau nó một triết lý. Song cũng đủ thấy ấn tượng ở một giọng thơ Lục Bát khá nhuần nhuyễn. Tất cả những gì “Lạc duyên” chưa đạt tới, đã được Chi hoàn thiện trong “Dốc thiêng” qua lời giới thiệu rất hay của ông bạn “Bụi đời” Bùi Chí Vinh. Tôi nói với Chi: “Vinh đã viết Chi tới bến rồi, anh còn biết viết gì nữa đây”. Nói vậy nhưng tôi vẫn không thể nào không trắc ẩn cùng “Dốc thiêng”.
“Dốc thiêng” là một tiếng thở dài về nhân tình thế thái bằng thơ của một phụ nữ đã qua tuổi “Ngũ thập tri thiên mệnh”. Ở tuổi đó, người đàn bà Trương Nam Chi đã lặng lẽ chiêm nghiệm lại cuộc đời mình với những tiếc nuối không thể nào quay lại được: “Đêm vuốt ngược/ Dốc/ Đàn bà – Hương hoa thầm gọi/ Ngỡ là/ Đương xuân… (Dốc thiêng). “Đêm vuốt ngược” là một thi ảnh sắc bén và độc đáo. Những câu Lục Bát gãy nhịp tạo nên một ám ảnh Thiền, vừa mơ hồ mà vừa rõ rệt. Ám ảnh ấy còn được nhắc lại ở “Thinh không”: Rót vào/ Khoảng lặng không gian – Hồi chuông tịnh độ/ Nhịp nhàng khoan thai…”. Từ ám ảnh gốc ấy, cảm xúc Trương Nam Chi đã tỏa ra nhiều chiều, trên nhiều cung bậc xao xuyến đến lạ lùng. Trước thực tại hôm nay, Trương Nam Chi không né tránh như nhiều nhà thơ nữ khác. Chị đã nhìn thẳng vào để chia sẻ qua “Người quê ở phố”, “Góc đêm” và đặc biệt là “Chuyện nơi đầu phố”. Có gì nghèn nghẹn, đớn đau khi đọc thơ: “Người đàn bà/ Không nhà/ Lang thang từng ngõ phố/ Mảnh đời cơ cực vắt vai/ Bươn chải trên hình hài/ Gấm vóc – Người đàn bà/ Bật khóc/ Tiếng nấc/ Ngấm vào lòng đất/ Chảy ra biển bạc/ Rừng vàng – Người đàn bà/ Gánh giang sơn trên vai/ Tiễn chồng con ra trận/ Con đường bất tận/ Níu bước chân/ Quên về… Người đàn bà/ Vượt qua chiến tranh/ Xuyên qua hòa bình/ Thấy rõ mình/ Đơn độc…”. Một bài thơ toàn bích, một bài thơ vào hạng hay nhất viết về thân phận đàn bà trên trái đất này, có thể sánh với thơ Zimboska (Nhà thơ nữ người Ba Lan đoạt giải Nobel gần đây).
Với những thi ảnh rất riêng, Trương Nam Chi đã khắc tạc nỗi nhớ về một thời chiến tranh: “Những chiếc lá rủ nhau rơi xuống vỉa hè – Những cơn giông vừa quen vừa lạ… Nhớ thiết tha tiếng tàu điện leng keng – Hoài niệm trở về xưa cũ – Bước chân đuổi nhau vần vũ – Quay cuồng trong chiến tranh… Điệp khúc trầm thương quay quắt tháng ngày qua… (Nhớ lắm ngày xưa ơi). Bài thơ “Nỗi niềm tháng Tư” hoàn toàn dùng nhịp Lục Bát truyền thống, nhưng thi ảnh rất mới mẻ, rất thi sĩ: “Tháng Tư trời đổ cơn giông/ Ai đem những sợi khói lồng vào mây/ Tháng Tư mưa rớt vai gầy/ Tình yêu nhòa ướt những ngày không nhau/ Tháng Tư tàn lụi mùa cau/ Đuôi con mắc sắc đàng sau ánh nhìn…”. Thơ với Trương Nam Chi ở “Dốc thiêng” đã hóa thành cái nghiệp của chị rồi: “Thơ ca/ Biếu tặng/ Thay quà – Chữ to chữ nhỏ/ Sao mà nhẹ tênh – Nghiệp thơ nhiều lắm thác ghềnh…”.
Có thể nói qua “Dốc thiêng”, Trương Nam Chi đã trở thành nhà thơ theo đúng nghĩa của giới chuyên môn. Khi đã hiểu “làm thơ để chết” thì “thơ mới sống mãi”: “Xin đừng khâm liệm/ Thơ tôi – Thực ra là chết…/ Nhẹ thôi/ Lâm sàng – Một mai/ Tỉnh giấc mộng vàng/ Từ trong ẩn ức/ Dịu dàng/ Hồi sinh!” (Hồi sinh).
TP. Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 8 năm 2013
Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha
Tóm lại, đọc xong tập thơ “Dốc thiêng” của người đồng nghiệp nữ đôn hậu hiền lành mà tôi thường gọi là “tiểu muội”, tự nhiên thấy lòng thật thanh thản. Thanh thản bởi chữ “Tình”, đã được Trương Nam Chi giải quyết nhẹ như không: “Lạt mềm em buộc làm sao/ Phút giây ai đổ dầu vào lửa than/ Phút giây tiên bụt quy hàng/ Phút giây lòng dạ ruột gan bời bời” (Lạt mềm…). Thanh thản bởi chữ “Đời”, đã được cô cảnh báo: “Ra đường bụng nhủ dạ rằng/ Tránh xa kẻ cướp nhập nhằng thường dân/ Coi chừng gặp kẻ tà tâm/ Giả danh nhân nghĩa kết nhầm tâm giao” (Tự nhủ)...
Ấn tượng đầu tiên của tôi khi gặp Trương Nam Chi rất gọn ghẽ. Đó là một mệnh phụ thầm kín, bẽn lẽn nhưng nồng nàn hương sắc đàn bà. Có thể gọi đó là “gia vị cuộc đời chăng”? Là một dạng “Spice girls” như tên một ban nhạc nữ nổi tiếng của nước Anh từng làm dậy sóng nửa phần kia của nhân loại?
Coi, nửa phần kia thì ai nấy đều biết. Nó thuộc về đàn ông, lớp độc giả đàn ông từ thanh niên đến sồn sồn. Loại đàn ông chọn lọc mà nếu kết hợp với người nữ sẽ thừa sức sinh đẻ ra 100 trứng như bà Âu Cơ huyền thoại.
Cũng may mà trong tập thơ “Dốc thiêng”, người đàn bà cầm bút mang tên Trương Nam Chi chỉ khai hoa nở nhụy đúng 54 trứng, đúng 54 bài thơ nửa quen nửa lạ, nửa gần nửa xa, nửa thân mật nửa hững hờ. Ngay trong bài thơ “Tự giới thiệu” đầu thi tập, nữ sĩ họ Trương đã biết cách nói về mình: “Bụi em phiêu bạt thiên hà/ Gặp cơn gió chướng la đà bay lên/ Mưa em rơi giữa nhớ quên/ Một hôm kiêu hãnh tràn trên sông hồ/ Nắng em mai phục bất ngờ/ Đậu trên vai áo đợi chờ… bâng khuâng/ Đoan trang vương nửa chừng xuân/ Là em - hát khúc trầm luân vô thường”… Nghe có vẻ “lên gân”, nhưng kỳ thực lại dịu dàng hết sức, nó như cung tơ chùng xuống tối đa mang giai điệu “Bụi em”, “Mưa em”, “Nắng em” nối liền phong cách thơ từ quá khứ đến hiện đại, từ nét điềm đạm quý phái của Bà Huyện Thanh Quan đến thế kỷ 21 với những nàng Hồ Xuân Hương chân đất thách thức đòi hỏi nữ quyền.
Trương Nam Chi biết tôi như là một “thi sĩ đàn anh” và từng là đồng đội lớp trước của cô ở đơn vị Bộ Tư lệnh Thành (Quân Khu 7). Tuy nhiên, nếu chỉ biết nhau như thế vẫn là chưa đủ, chúng ta còn cần thêm điều kiện “ắt có” cho đủ mệnh đề để cấu tạo nên tình thân đồng điệu, và điều kiện “ắt có” ấy chính là đây. Là tập thơ “Dốc thiêng” khẳng định được sở trường phóng tay làm “Lục bát” của nữ sĩ. Không tin, mời bạn liếc qua bài thơ “Suông…” chỉ vẻn vẹn 4 câu phá cách mà “thấm” khả năng “chơi chữ giỡn từ” bao la của cô. Ở bài thơ này, hai chữ “suông” và “nhạt” săn đuổi nhau làm thành một bức tranh âm nhạc “Serenade” trữ tình: “Rượu suông/ Nhạt mảnh trăng thề/ Tình suông/ Nhạt cỏ ven đê hững hờ/ Chuông suông/ Nhạt giọt thẫn thờ/ Chiều suông/ Nắng nhạt/ Em chờ/ Đêm suông”.
Chao ôi Lục bát! Cái thể loại thơ phổ cập dùng để hát ru, hò vè, quen thuộc như ca dao, nhưng chất chứa biết bao là tinh hoa thâm thúy. Chính vì quá dễ làm, nên thơ Lục bát dễ biến thành con dao hai lưỡi đối với những người làm thơ tập sự như chơi. Ở đây Trương Nam Chi không sợ chảy máu đứt tay, cô đủ bản lãnh và kinh nghiệm khi nắm đàng cán “con dao” Lục bát. Ta hãy đọc bài thơ “Sợ…” của cô: Đừng nhìn như thế/ Em say/ Sợ về ru mối tình chay bốn mùa/ Tình yêu nào dễ bông đùa/ Mai này hờn giận lên chùa trách nhau/ Đừng nhìn như thế/ Em đau/ Con tim mềm yếu có đâu tội tình/ Sợ đem ra giữa sân đình/ Mặc cho thiên hạ mắng mình bạo gan/ Đừng nhìn như thế/ Em can… (Thực ra tôi chỉ muốn kết thúc bài thơ ở hai chữ “Em can…”, nhưng Trương Nam Chi là Trương Nam Chi, cô vẫn là một mệnh phụ thầm kín thích giãi bày cảm xúc đến nơi đến chốn).
Cũng cần phải nói, trong “Dốc thiêng” không chỉ thuần túy Lục bát, Trương Nam Chi còn thể nghiệm sáng tác các thể loại khác như thơ tự do, thơ bốn chữ, thơ bảy chữ, thơ bậc thang… tuy nhiên sự “ép phê” bạn đọc không thể bằng loại “hàng độc Lục bát” mà cô sở trường. Xin trích ở đây vài đoạn thể loại khác có cấu tứ, vần điệu ổn định: “Men rượu cần chỉ là duyên cớ/ Mắt đổ sóng vào nhau mà không nỡ/ Nhỡ nhàng này hẳn tại lá bùa mê/ phố núi chông chênh dan díu lối em về…” (Có một lần dan díu), hoặc “Giá không say câu hát/ Trên đỉnh đồi hoàng hôn/ Giá mùa trăng khao khát/ Đừng làm em điếng hồn (Đơn phương), hay là “Người đàn bà/ Vượt qua chiến tranh/ Xuyên qua hòa bình/ Thấy rõ mình/ Đơn độc” (Chuyện nơi đầu phố)
Tóm lại, đọc xong tập thơ “Dốc thiêng” của người đồng nghiệp nữ đôn hậu hiền lành mà tôi thường gọi là “tiểu muội”, tự nhiên thấy lòng thật thanh thản. Thanh thản bởi chữ “Tình”, đã được Trương Nam Chi giải quyết nhẹ như không: “Lạt mềm em buộc làm sao/ Phút giây ai đổ dầu vào lửa than/ Phút giây tiên bụt quy hàng/ Phút giây lòng dạ ruột gan bời bời” (Lạt mềm…). Thanh thản bởi chữ “Đời”, đã được cô cảnh báo: “Ra đường bụng nhủ dạ rằng/ Tránh xa kẻ cướp nhập nhằng thường dân/ Coi chừng gặp kẻ tà tâm/ Giả danh nhân nghĩa kết nhầm tâm giao” (Tự nhủ), càng thanh thản hơn khi cô một hôm tự nhiên biến mất: “Qua cầu mà vắng dáng em/ Gió bay khuyết hẳn một bên… đừng buồn” (Tơ lòng).
Coi, buồn làm sao được hả Trương Nam Chi, “Sức mấy mà buồn, buồn ơi bỏ qua đi tám…”*
Sài Gòn, ngày 10 tháng 4 năm 2013
Nhà thơ Bùi Chí Vinh
* Lời trích ca từ từ một bản nhạc nổi tiếng của Phạm Duy