TẢN MẠN VỀ CÂU CHỮ
(Về những ý kiến với bài “Về tuổi hoa” đăng trên lục bát mỗi ngày 25/05/2010)
Kính gửi: - Ban Biên tập lucbat.com
- Độc giả trang lucbat.com
Vào cuối thượng tuần tháng 6, tôi mở ra và đọc được những bài gửi của độc giả lucbat.com; vì bận rộn công việc, tới hôm nay (cuối hạ tuần) mới có được vài lời chia sẻ cùng mọi người – các bạn yêu thơ.
Trước hết xin chân thành cảm ơn các ý kiến đóng góp của quý độc giả và biên tập viên (BTV) Thuỷ Hướng Dương. Thật sự tôi tìm thấy ở đây nhiều điều thú vị mong được chia sẻ cùng mọi người.
Kho kiến thức là vô tận, con người mãi còn ngụp lặn trong nó. Người đời tìm kiếm nó từ muôn vàn cách (từ học đường, học hỏi, tìm kiếm, từ những bất chợt đời thường… mà nền tảng cốt lõi được tích tụ lại trong sách vở - kho tàng tri thức của nhân loại. Mà ngay cả kho tàng ấy cũng mãi không ngừng được “nhập thêm”, được hoàn thiện.
Nói theo cách của Nhà thơ Trần Dần là “cái gì ta biết: đấy là chớp mắt, cái gì ta không biết là Thiên thu”.
Trần Dần, Lê Đạt là một trong những nhà thơ chủ chương “Cách tân thơ”. Nhưng khi tiếp cận “những nhà thơ có chủ chương ấy” tôi lại thấy mình “dễ đọc” (thực ra là rất cảm) Lê Đạt, Trần Dần hơn là là một số bài thơ của nhà thơ Đặng Đinh Hưng hoặc Hoàng Hưng.. (về điểm này tôi chỉ “Kính nhi viễn chi”). Tuy nhiên, theo cách hiểu đơn giản của tôi thì: dù cách tân ra sao - mọi sáng tạo cũng nhằm đạt tới mục đích cuối cùng là làm cho thơ hay hơn, đẹp hơn, lung linh hơn và tràn đầy sức sống (nói làm chi tới những loại thơ phong trào, thơ con cóc; nó có vị trí riêng của nó mà không được gọi là đại diện của Thơ).
Trở lại với bài thơ “Về tuổi hoa” tôi viết một tuần sau ngày mất của nhà thơ Hoàng Cầm. Thực ra trước đó tôi đã viết một bài tưởng nhớ Hoàng Cầm vào ngày 07/05/2010 có tựa “Dọc Thiên Thu “ - Thể thất Ngôn:
DỌC THIÊN THU
(Tưởng nhớ Thi sĩ Hoàng Cầm,
ngày 06/5 Người vào thiên thu )
Người về thăm thẳm cõi thiên di
Sông Đuống nghiêng lòng tạ bước đi
Chiếc lá Diêu Bông nương sóng nước
Ngàn năm cứ biếc tuổi đương thì…
Ơi những giọt lòng đã hóa thơ
Càn – Khôn quay miết sợi vi vô
Trượng phu Kinh Bắc mười hai tuổi
Ngọn cỏ trai tơ sắc đến giờ…
Lời ai da diết bên Huyền sử
Cùng váy xòe xuân vẫn hát ru
Từ vỡ pha – lê hồn thắm lại
Tình thơ thơm ngát tỏa thiên thu...
VT 07/5/2010
PMH
Bài thơ này tôi đã gửi cho các bạn thơ của mình mà không đăng (không thể đăng vào trang lục bát). Để có bài cho lucbat.com tôi đã viết biến tấu từ “Dọc thiên Thu” thành bài mới “Về tuổi hoa”. (Bởi tất cả nó giống nhau đến từng câu chữ. tứ thơ… mà hình ảnh Hoàng Cầm đã từ lâu ám ảnh tôi…).
VỀ TUỔI HOA
(Biến tấu của bài “Dọc thiên thu”)
Thuở nào?
Sông Đuống òa thơ
Giọt nào?
Dìu dặt cung tơ thầm thì
Lời nào?
Phong kín cơn mê
Ngàn xanh
thao thiết vọng thề: Diêu Bông..!
x x
x
Chinh chuyền
được mất – hư không
Tình thơ
hoa thắm quyện vòng thiên hương
Pha lê
vỡ tự minh thường
Trượng phu
Kinh Bắc tha hương trở về…
x x
x
Cõi tạm
còn đó bến Mê
Ngày về
lá biếc si mê cõi Người
Trăm năm
vạn vật đổi dời
Mười hai
tuổi mụ nhoẻn cười, mây bay...
VT 05.2010
PMH
Có thể (?) tuyệt đại đa số chúng ta đều biết (có thể không thuộc, không biết hết) bài “Lá diêu bông”, nhưng chắc không nhiều người (dân Amateur) tìm đọc về các tác phẩm và sự nghiệp của Hoàng Cầm. Bài thơ của tôi đã sử dụng nhiều “chữ” của Nhà Thơ – Thi sĩ Hoàng Cầm: diêu bông, đương thì, mười hai, pha lê, váy xòe xuân…(ngoài từ diêu bông, các từ kia là do tôi trìu mến mà gọi thế).
Tôi đã giải thích cho bạn thơ của tôi một trong những điều ấy. Tại sao lại “Trượng phu Kinh Bắc mười hai tuổi” (hoặc 12 tuổi mụ nhoẻn cười, mây bay…): bậc “trượng phu” (không cần nói nữa. “Bậc trượng phu như anh không thể ngã lòng” (lời của NT Phùng Quán). Mối tình của Hoàng Cầm thật trong sáng quá, thơ trẻ, đẹp tới độ thanh cao (bài Chị em xanh) - tiếp theo của “ Lá Diêu Bông”.
…
Chị vỡ pha lê. Bùn vấy tay
Hồn trong Em chuốc Chị chiều say
Là em cưới Chị xanh thiêm thiếp
Sinh một đàn con mây trắng bay.
(Chị Em xanh)
Và mối tình ấy mãi đẹp ở tuổi 12:
…
Dưới kia sông chẳng quay đi
Mười hai tuổi cũ biết gì Chị ơi
(Gọi đôi)
Hay
Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầm bà sấm. Bến cô mưa
(Quả vườn ổi)
Và với tôi – Hoàng Cầm đã là bậc trượng phu ngay từ tuổi hoa niên…
Ai đã mê thơ Hoàng Cầm sẽ nhận thấy ở thơ ông những nét độc đáo của sự sáng tạo (ông đã chẳng từng nói: cái tên Diêu Bông bất chợt đến và không phải ông “sáng tác” bài Lá Diêu Bông – Ông chỉ là người chép lại lời ai đó đọc cho ông (sau những gì trăn trở).
Tôi đã nhận thấy: một số “lá, cỏ” mới và lạ trong thơ ông: lá Lan đao, lá Diêu bông, Cỏ trai tơ:
Em gánh gạo về dinh Phú hộ
Nứt vai thanh sẹo lá Lan Đao …
(Tắm Đêm)
Em váy xoè xuân
Rắc hương đường tuổi trẻ
…………
Em nhớ hình như sắc
Nhớ tên đời đời
Gọi nó:
Cỏ trai tơ.
(Cỏ trai tơ)
Thật tiếc nếu ta cứ mãi tìm tra ý nghĩa của từ trong từ điển, mà một số chắc chắn là không có. Mặc..! Bài thơ vẫn mãi đẹp, quá đẹp, quá đắm say và nương dẫn lòng người… Những bài thơ, những tứ thơ, những con chữ mang đến bao cảm xúc đẹp, ân cần, tao nhã liện có cần phải tìm tra nơi từ điển chăng (?). Khi mà tổng thể của nó, văn cảnh mà nó biểu đạt một tư tưởng (mà cả nghệ thuật – Thi cách và sự sáng tạo) với sự hài hoà chung, với một thông điệp gửi gắm; Liệu Hoàng Cầm có cần tra tìm chữ “bịa” của mình là hai từ “Diêu Bông” – khi dòng chảy cảm xúc đang cuộn dâng, trong sáng…
Biên tập viên Thuỷ Hướng Dương đã hiểu, cảm và nhẹ nhàng “ta nên hiểu và duy cảm theo tinh thần thơ của Hoàng Cầm” – Vẻ đẹp cao nhã và huyền nhiệm của ngôn từ chính là đích mà tự thân con chữ tìm tới… Mỹ học chỉ là những công việc mà người ta tìm đến sau nó (sự sáng tạo) mà thôi..
Nói theo nhà thơ Lê Đạt: “con chữ bầu nên nhà thơ” và không phải nhà thơ được bầu một lần và vĩnh viễn (nó không giống cái ghế quan chức) – Con chữ sẽ tái bầu và mãi tiếp tục – không có nhiệm kỳ. Có lẽ vì thế các bậc trượng phu gọi nhà thơ là “phu chữ” – Trân trọng làm sao!
Với sự công phu chân thành đầy tâm huyết, các nhà phê – bình có thể còn đưa ra những phân tích, nhận xét tinh tế, đẹp và “đắt” đến ngay cả tác giả của chúng cũng không dám chắc hiểu được mình đã “đạt” đến vậy (“Thi nhân Việt nam của Hoài Thanh- Hoài Chân” chẳng hạn).
Trong đợt đi lễ hội Chùa Hương tôi có một khổ thơ ngũ ngôn:
Reo ngân Bầu Sữa Mẹ *
Thách thót giọt riêng mình
Từ sương giăng buông lối
Chợt “ Tri thường viết minh”**
Lơ lửng trên tầng không ***
Dòng giải oan bên dưới
Vọng nỗi niềm nhân gian
Suối nguồn đang tắm gội…
…
Câu “ Tri thường viết minh” được mượn nguyên văn trong Đạo - Đức kinh của Lão Tử - Từ điển chắc không có một câu dài thoòng loòng như vậy và phải hiểu nó: khi ta hiểu (ngộ) được chữ “thường” thì sẽ “minh” ra, hay khi ta đã “minh” sẽ thấy được sự “thường”. Từ “minh thường” trong bài thơ “Về tuổi hoa” chính mang tinh thần ấy.
BTV Thuỷ Hướng Dương mới nói ý nghĩa của cả câu “Trung trinh, tiết tháo, minh thường” (Khổng Tử) là nhân cách của người quân tử, chứ chưa giải thích cụ thể từng từ (mà liệu có cần giải thích từng con chữ ?).
(*): Danh từ riêng. (**): Lời Lão Tử. (***): Đi cáp treo nên suối Giải Oan
*Trở về với từ “thao thiết”…
Tôi xin được mượn một hình ảnh để lý giải như sau: khi nghe câu “Đồ quỷ”! Từ quỷ chắc chắn có trong từ điển. Từ ghép “Đồ quỷ!” chỉ một lời mắng mỏ (khi ai đó làm bạn bực mình, hoặc với một việc nghịch phá, gây hư hỏng, đổ vỡ… của ai đó – với mình). Liệu có ai thích bị nghe mình là “Đồ quỷ”.
Trong một văn cảnh nhất định, ngữ điệu của lời nói (nếu văn chương không diễn tả được thì sân khấu hay điện ảnh sẽ làm rất tốt, bằng diễn xuất của diễn viên) sẽ biểu đạt những tình cảm thân thương không ngờ: “Đồ ghủy… quỷ” nói theo ngữ âm Nam bộ và khi người nói kèm thêm động tác: ấn nhẹ một ngón tay vào trán người đối diện (bạn trai, bạn gái hoặc em út…) thì mới thấy cưng thương làm sao! “Ngữ pháp, ngữ âm, ngữ nghĩa” là thế chăng (?).
Con chữ “thao thiết” dù (có là) Đại từ điển, nghĩa của nó cũng còn cần cập nhật dài thêm nữa…
Tôi không tra từ điển (nếu tra rồi mà nghĩa cũng chỉ là “riết róng, nghiệt ngã”, cũng không cần quan tâm) bởi trong văn cảnh ấy (Về tuổi hoa), trong câu thơ ấy, chữ “thao thiết” thật đẹp vô cùng – Nó là sự trăn trở, mong muốn đầy thôi thúc. Nó thổn thức, thao thức (lẽ dĩ nhiên không phải là mất ngủ!) về một nỗi niềm đau đáu… thân thương… Hoàng Cầm, với tình yêu thơ trẻ, đầy nỗi niềm đã thốt nên:
…
Từ thuở ấy Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
- Diêu bông hời
... ới Diêu Bông !
(Lá Diêu bông)
“Diêu Bông hời” cứ mãi ngân vang, âm vang... PMH như mãi “còn thấy” và đã viết: “Ngàn xanh thao thiết vọng thề: Diêu Bông”.
Riêng về từ “thao thiết” dùng trong bài “Về tuổi hoa”, tôi quên hẳn các loại từ điển VN và có một đề nghị nhỏ: (nên chăng?) bổ sung thêm nghĩa của từ này.
Lại xin được mở rộng một chút, khi ta nghe bốn từ sau: “điên, cuồng, ngu, ngộ” thì với 4 từ trên liệu có ai thích “mặc” vào mình? Vậy mà ta phải trân trọng và ngưỡng mộ nó:
“Cao Tổ điên hào kiệt,
Võ Đế ngộ tràng sinh
Tăng Điểm cuồng thiên hạ
Nhan Tử ngu thánh hiền”
(Đường thi)
(Lưu Bang, Võ Đế, Tăng Điểm, Nhan Hồi: trong đó tôi mê nhất người học trò trác việt của Khổng Tử).
Trước tinh hoa ấy, mọi thứ (nhiêu khê, hoa mỹ khác) phỏng còn có nghĩa!
* Với câu “Chinh chuyền được mất – hư không”.
Từ “chinh chuyền” mà độc giả giải thích, tôi xin được bỏ 2 từ chơi bời trong “được mất chinh chuyền (Tiền) cũng chỉ là chơi bời, là hư không mà thôi” (Lính Thủy). Nhưng ý đồ, câu chữ của nó không thể tách rời khỏi tứ thơ. Những “cuộc chinh chuyền” này vừa là của “tuổi hoa”, vừa là của “đời người”… cũng chỉ là hư không mà thôi (chẳng còn gì hết, hư không hết) – để tương phản, làm nền cho câu kế tiếp: “Tình thơ hoa thắm quyện vòng thiên hương”. Sau “hư không ấy” còn lại gì ??
Cái “Tình thơ” ấy đẹp quá, như một vòng nguyệt quế tỏa hương (không phải là ngát hương) và là “thiên hương” kia – Hương thơ có ánh sáng (thứ hào quang tỏa ra từ các bậc minh vương, các đấng tối cao…).
Hôm nay, khi viết những dòng bộc bạch này, tôi thấy nhẹ lòng biết bao. Muốn nói thật nhiều, để diễn đạt cho trọn vẹn, cho chân thực, cho cặn kẽ nhẽ đời, nhưng có lẽ là không thể… Bởi ngay cả các bậc cao nhã uyên thâm trên đời này (có lẽ?) họ cũng không cố tình giảng giải, phân tích, thuyết phục người đọc. Tự thân con chữ sẽ làm việc đó. “CẢM NHẬN VÔ NGÔN”! Và xin được nói “MƯA RƠI KHÔNG CẦN PHIÊN DỊCH”, câu nói của NT. Trần Dần...
Vũng Tàu 30/6/2010
Phùng Minh Hoài
Email: hoaipmdd@gmail.com
Tái bút:
Độc giả (ĐG) Việt Hà (lucbat.com) có lo lắng “… về sự kết hợp từ ngữ một cách phi lý và cẩu thả. Ví dụ: cụ thể và tỷ mỉ thành cụ tỷ, quan tâm và lo ngại thành quan ngại... làm mất đi sự trong sáng của Tiếng Việt”.
Tôi đồng tình với việc cần “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (đã từng có các mục: “Nói chuyện chữ và nghĩa”, “Dọn vườn” “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”… - Báo Văn Nghệ). Nhưng tôi xin được điều chỉnh lại một chút: chủ trương “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” ĐG Việt Hà là đúng, nhưng việc đánh đồng (làm ví dụ về sự phi lý, cẩu thả trong việc ghép từ) của từ “cụ tỷ” và “quan ngại” thì… không ổn!
Từ “cụ tỷ”: Không cần bận tâm. “Chữ” ấy không có văn hóa!
Từ “quan ngại”: Rất đẹp - Nó diễn đạt trạng thái, niềm quan tâm, âu lo, day dứt, ái ngại – Với mong muốn nếu không được cảnh báo, chú ý sẽ dẫn tới những điều không tốt, những điều tệ hại, không chỉ cho “ta” mà cả cho “người” và không đành lòng được… (quyết không phải sự quan tâm “hời hợt, bỏ đấy, có lệ”).
Trân trọng!
Mời đọc thêm ý kiến về bài thơ VỀ TUỔI HOA của Phùng Minh Hoài